Lễ hội Cổ Loa
Lễ hội Cổ Loa được tổ chức trong 02 ngày 5, 6 tháng Giêng. Lễ hội diễn ra nhằm tưởng niệm và tôn vinh một nhân vật có thật trong lịch sử, Đức vua An Dương Vương – người sáng lập ra nhà nước Âu Lạc và có công xây thành Cổ Loa. Người dân Cổ Loa, từ xưa đã có câu: “Chết thì bỏ con bỏ cháu, sống không bỏ mồng 6 tháng Giêng”.
Lễ hội Cổ Loa nhằm giáo dục truyền thống mang ý nghĩa sâu rộng trong nhân dân, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” đồng thời duy trì, bảo tồn và phát huy hoạt động văn hóa truyền thống, giá trị di sản vật thể và phi vật thể khu di tích Cổ Loa – di tích Quốc gia đặc biệt. Lễ hội được tổ chức với phương châm “An toàn – vui tươi – lành mạnh – tiết kiệm”.
Lễ hội gồm có 2 phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ tổ chức theo nghi thức cổ truyền gồm có lễ dâng hương và lễ rước của Bát xã Loa thành.
Còn phần hội thì kéo dài tới rằm tháng giêng bằng nhiều trò vui. Tối ở đình làng có đốt pháo hoa, hát ca trù, hát tuồng. Ban ngày, các cụ ông chơi bài, đánh cờ. Các cụ bà đi lễ đình lễ chùa. Thanh thiếu niên nam nữ có trò chơi: đánh đu, đấu vật, kéo co, leo dây, bắn cung nỏ, cờ người, thổi cơm thi, chọi gà, đánh đáo mẹt...
Phần nghi lễ mở đầu của hội Cổ Loa mang tính tưởng niệm thiêng liêng, hướng về An Dương Vương – người có công lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước thời tiền sử. Đối với lễ hội truyền thống, mỗi nơi đều có hình thức tưởng niệm riêng.
Cổ Loa hiện còn cả một quần thể các công trình kiến trúc vô cùng phong phú được xây dựng qua nhiều thời kỳ bao gồm nhiều loại hình với nhiều chức năng khác nhau. Đó là những công trình tưởng niệm, công trình mang chức năng tôn giáo, tín ngưỡng. Từ đình, đền, chùa, am, miếu đến các điếm xóm, điếm ngõ, những ngôi nhà cổ... Bên cạnh các công trình tưởng niệm còn có sự hiện hữu của một tòa thành đồ sộ – thành Cổ Loa. Thành Cổ Loa không chỉ đồ sộ về quy mô mà còn độc đáo về kiểu thức với cấu trúc nhiều lớp thành uốn lượn, là tòa thành cổ nhất, to lớn nhất của Việt Nam và Đông Nam Á thời cổ đại.
Lòng đất Cổ Loa là địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu các giai đoạn văn hóa của người Việt cách đây từ 4000 – 2000 năm, trải qua các giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn mà đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn, còn được gọi là “Văn minh sông Hồng”. Tại các di chỉ khảo cổ học đã phát hiện được trống đồng, hàng vạn mũi tên đồng, khuôn đúc đồng, hàng trăm mũi giáo, lưỡi cày, rìu.
Bên cạnh những giá trị văn hóa vật thể, Cổ Loa ngày nay còn bảo lưu nhiều giá trị văn hóa phi vật thể, trong đó nổi bật là lễ hội Cổ Loa. Lễ hội Cổ Loa là hội lớn nhất trong năm của Cổ Loa với sự tham gia của Bát xã, bao gồm: Cổ Loa, Văn Thượng, Ngoại Sát, Mạch Tràng, Đài Bi, Cầu Cả, Sằn Giã, Thư Cưu. Ngoài ra, tham gia lễ còn có làng Hà Vĩ, thường gọi là Quậy – một làng gốc ở Cổ Loa, xưa đã phải di dời đến vùng Hà Vĩ (cuối sông), nhường đất để Vua Thục xây thành, được Bát xã tôn làm anh Cả.
Ngoài ra, trong dịp Tết Nguyên đán xuân Đinh Dậu và lễ hội Cổ Loa, tại Khu di tích Cổ Loa cũng diễn ra một số chương trình hoạt động trưng bày, triển lãm, quảng bá các giá trị của di tích.
- Hội chợ xuân giới thiệu, quảng bá sản phẩm làng nghề, ẩm thực truyền thống, nông sản, đồ lưu niệm và trò chơi dân gian (tại khu vực Nhà trưng bày Khu di tích Cổ Loa).
- Triển lãm ảnh nghệ thuật về Cổ Loa.
- Triển lãm cây cảnh nghệ thuật (tại khu vực đền Thượng và đình Ngự Triều Di Quy).
Đến với lễ hội, chúng ta không chỉ chiêm ngưỡng những hình bóng truyền thuyết xưa mà còn đến với giá trị văn hóa mang vẻ đẹp và sức mạnh trường tồn. Với mỗi người dân Cổ Loa, lễ hội như một cái tết để mọi người thư giãn, lấy lại tinh thần trước khi bước vào một chu kỳ làm việc mới. Cuộc sống hôm nay dẫu có nhiều lo toan vất vả nhưng bằng nỗ lực của mỗi người mỗi làng trong Bát xã, một lễ hội cổ truyền vẫn được lo toan chu tất. Tất cả đều hướng về một điều thiện, một tấm lòng thành kính đối với tổ tiên sinh thành.
# Xem thêm tại Wikipedia