Kinh nghiệm du lịch phượt Thừa Thiên Huế

5 / 5     1 đánh giá
Thừa Thiên - Huế là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Thừa Thiên - Huế giáp tỉnh Quảng Trị về phía Bắc, biển Đông về phía Đông, thành phố Đà Nẵng về phía Đông Nam, tỉnh Quảng Nam về phía Nam, dãy Trường Sơn và các tỉnh Saravane và Sekong của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào về phía Tây. Thừa Thiên - Huế cách thủ đô Hà Nội 660 km về phía Bắc, cách Thành phố Đà Nẵng 101 km về phía Đông Nam, cách Nha Trang 612 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.050 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1A. Tỉnh lỵ đặt tại thành phố Huế.
- Thời tiết ở Huế khá nóng nên bạn chỉ cần chú ý trang phục khi du lịch đến đây, thoải mái, đơn giản, chuẩn bị thêm kem chống nắng, kính râm và nước suối.
- Khi đi du lịch bạn phải di chuyển thường xuyên và đi bộ khá nhiều. Do đó bạn nên chuẩn bị giày, dép đế mềm để thuận tiện và thoải mái di chuyển.
- Trước khi quyết định du lịch Huế bạn cũng nên tìm hiểu một số từ ngữ địa phương để thuận tiện cho việc giao tiếp vì ngữ âm ở Huế khá khó nghe, đặc biệt là từ địa phương.

- Bạn nên hỏi giá trước khi mua, ăn hay uống vì như nhiều điểm du lịch khác, dịch vụ ở Huế vẫn có chỗ chém đẹp du khách.
- Lưu ý khi mua tôm chua, mắm các loại vì một số nơi phải chia % cho hướng dẫn viên nên chất lượng rất kém. Thường thì bạn chỉ có được tôm chua chất lượng tốt khi có người Huế đưa đến chỗ quen hoặc mua theo kiểu đóng gói tại chỗ. 
- Khi đi chợ Đông Ba bạn nên mặc cả... 2/3 giá. Đôi khi là 1/3 và cẩn thận móc túi.
- Khi đi taxi hay xích lô đến địa chỉ nào mà mình đã biết thì phải nói rõ là mình đã biết trước địa chỉ, không cần chờ, nếu không họ sẽ đòi tiền hoa hồng của chủ khách sạn hay đưa bạn đi lòng vòng rồi hét giá cao khi thanh toán, tất nhiên chỉ tuỳ từng người thôi.
- Đồ ăn trong Huế thường bị cay nên bạn hãy cân nhắc trước khi ăn. Huế nhỏ nhưng để thăm hết các danh thắng và thưởng thức hết các món ăn của Huế cũng phải có ít nhất là 4 - 5 ngày.

- Tới đây bạn nên tranh thủ mua vải và may áo dài. Vải áo dài ở Huế rất tốt, tinh xảo mà giá cả lại hợp lý, còn may đồ ở đây thì vừa đẹp lại lấy nhanh.
- Nếu gặp rắc rối, vấn đề liên quan đến du lịch cần cơ quan chức năng xử lý, bạn có thể gọi điện thoại phản ánh với ông N.V. Thắng, Chánh thanh tra Sở VH,TT&DL theo số điện thoại 0914.050.005.
Huế là một thành phố du lịch thời tiết khá thất thường. Huế là điểm có khí hậu khắc nghiệt nhất nước ta, mùa hè thì rất oi bức, mùa đông thì cực kỳ lạnh buốt.

Ở Huế, mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8, trời nóng nực oi bức, nhiệt độ có khi lên tới 35-40 độ C. Tháng 8 đến tháng 1 là mùa mưa, trong đó từ tháng 10 trở đi là mùa bão lụt, nhiệt độ trung bình 20 độ C, có khi xuống thấp đến 9 độ C. Mùa xuân kéo dài từ tháng 1 đến cuối tháng 2. Vì vậy bạn nên cân nhắc về thời điểm khi đi du lịch Huế.

Huế là thành phố thơ mộng và xinh đẹp, mùa thu là màu rất đẹp ở Huế bạn có thể đến đây vào mùa thu khoảng tháng 9-11.

Đối với những người chưa đến Huế lần nào thì nên chọn dịp Festival Huế (một lễ hội văn hóa nghệ thuật, du lịch có quy mô quốc gia và tính quốc tế đầu tiên ở Việt Nam). Vừa thấy được vẻ mộng mơ của xứ Huế dịu dàng, vừa khám phá được những nét văn hóa đẵc thù nơi đây mà qua sách báo, tranh ảnh cũng không thể cảm nhận được tất cả. Festival Huế 2014 vừa qua có rất nhiều chương trình thú vị như Đêm Hoàng Cung vào các tối 15 và 19/4 tại Đại Nội (có dạ nhạc tiệc); Lễ hội Áo dài; Chương trình sân khấu hóa tôn vinh Ca Huế: 20h ngày 16/4/2014 tại Nghinh Lương Đình; Lễ hội đường phố “Di sản và sắc màu văn hóa” của các nước khu vực Đông Á - Mỹ La tinh… Đối với những người muốn tìm hiểu văn hóa thì không lúc nào thích hợp hơn Festival.

Còn nếu bạn muốn khám phá các đển đài, lăng tẩm cùng các điểm du lịch nổi tiếng ở Huế bạn có thể đến bất cứ mùa nào. Đừng bỏ lỡ cơ hội khám phá Đại Nội, Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế, Lăng Minh Mạng, Khải Định, Tự Đức, chùa Thiên Mụ, núi Ngự Bình… Nhớ nhé, thời tiết huế khá thất thường, ngay cả khi trời nắng bạn cũng có thể gặp những cơn mưa bất chợt. Bởi thế lúc nào cũng phải mang theo 1 chiếc ô bạn nhé.
   Hà Nội
Xe khách từ Hà Nội
Ở Hà Nội bạn có thể bắt xe khách đi Huế tại bến Giáp Bát, bến xe Nước Ngầm, bến xe Lương Yên, với giá vé từ 300.000đ.
# Xem thông tin các xe Khách từ Hà Nội đến Huế tại đây.

Tàu hỏa từ Hà Nội
Với những bạn ở miền Bắc muốn đi du lịch đến Huế thì có thể tới Hà Nội đón tàu đêm từ ga Hà Nội đến Huế (hành trình này kéo dài khoảng 13 tiếng. Tàu chạy từ 19h00 thì tới khoảng 8h00 đến 8h15 là các bạn có mặt tại Ga Huế). Giá vé từ Hà Nội đi Huế: 350.000đ - 800.000đ tùy thuộc vào các loại ghế.

   Hà Nội / Hồ Chí Minh
Máy bay từ Hà Nội / Hồ Chí Minh
Sân bay Phú Bài hàng ngày đều có chuyến bay từ TP.HCM và Hà Nội đến Huế với nhiều hãng như Vietnam Airlines, VietjetAir, Jetstar.

Phương tiện di chuyển từ sân bay về trung tâm thành phố:
khoảng cách từ sân bay về tới trung tâm thành phố khoảng 13km.

Taxi:
Thời gian để Bạn di chuyển từ sân bay về trung tâm thành phố Huế hoặc ngược lại chỉ trong vòng từ 15 đến 20 phút.
Dịch vụ xe taxi ở Huế có nhiều hãng taxi uy tín, chất lượng như:
- Taxi Mai Linh.
- Taxi Thành Đô.
- Taxi Thành Hưng.
- Taxi Phú Xuân.
Giá cả tùy loại taxi, giá taxi khoảng 190.000đ.

Xe trung chuyển:
Đây là dịch vụ đón tiễn sân bay của các công ty du lịch trên toàn quốc. Ngay khi ra cửa sân bay, các bạn có thể dễ dàng tìm được những công ty du lịch có tại sân bay để di chuyển về trung tâm thành phố Huế, hỏi trước giá cả và tuyến đường. Xe ô tô trung chuyển hoạt động với tần suất từ 30 - 60 phút/chuyến. Xe trung chuyển của sân bay khởi hành tại văn phòng 20 Hà Nội, TP.Huế. Số điện thoại: (054).382.6826. Giá vé: 50.000đ/ người.

Xe thuê du lịch
Các công ty du lịch, các dịch vụ xe du lịch ở Huế hiện có các loại xe như: xe 4 chỗ, xe 12 chỗ, xe 24 chỗ, xe 45 chỗ... sang trọng tiện nghi, giá cả phải chăng, đi và về trong thành phố hoặc các tỉnh thành phố khác. Sân bay Phú Bài đi trung tâm thành phố Huế có mức giá 200,000đ với xe 4 chỗ và 250,000đ với xe 7 chỗ. Đặt 2 chiều, giá trọn gói là 380,000đ/ 4 chỗ, 475,000đ/ 7 chỗ. Dịch vụ đưa đón từ sân bay về sẽ đưa quí khách về bất cứ nơi nào thuộc thành phố Huế, bất kể sáng sớm hay tối khuya, giá cố định.

Đặt vé máy bay đến Huế tại:
Với những trường hợp du lịch ít người hoặc du lịch một mình. Bạn có thể lựa chọn Đi chung Taxi để chia sẽ chi phí từ sân bay về khách sạn với một số Hành Khách khác. Cách sẽ này giúp giảm chi phí Taxi từ sân bay.
Đặt vé đi chung Taxi từ Sân Bay tại đây:

   Hồ Chí Minh
Xe khách từ Hồ Chí Minh
Ở Sài Gòn bạn mua vé ở bến xe Miền Đông để đến Huế, với giá vé từ 450.000đ.
# Xem thông tin các xe Khách từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Huế tại đây.

Tàu hỏa từ Hồ Chí Minh
Tại Thành phố Hồ Chí Minh các bạn cũng có thể mua vé tại quầy hoặc trên website của đường sắt. Nhưng đi tàu từ Thành phố Hồ Chí Minh thì bạn có nhiều thời gian để trải nghiệm suốt chuyến đi hơn vì thời gian tàu chạy ban ngày nhiều hơn. Giá vé từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Huế từ: 400.000đ - 1.200.000đ tùy thuộc vào các loại ghế.

Các khách sạn và nhà nghỉ rẻ chủ yếu tập trung ở phố Lê Lợi mạn gần Cầu Trường Tiền Huế, khu vực phố Chu Văn An & Võ Thị Sáu va Nguyễn Thái Học cũng là những con phố có nhiều nhà nghỉ và khách sạn từ 1 - 4 sao. Các nhà nghỉ có giá từ 150.000đ – 300.000đ/ đêm tùy nhà nghỉ khách sạn, có nhà nghỉ có thể ở được 4 - 5 người/ phòng.
Một số khách sạn cho các bạn tham khảo:
Xe đạp thồ:
Thường tập trung ở các bến xe An Cựu, Ðông Ba, ga tàu, các tụ điểm thương mại, bệnh viện.

Xe ôm:
Ở Huế lượng xe ôm không nhiều như ở Sài Gòn nhưng cũng đủ cho bạn có thể tìm thấy để đi về nhà từ ga tàu hay bến xe hoặc thuê để đi cả ngày lòng vòng khắp thành phố. Giá cả cũng không cao lắm và còn tuỳ vào quãng đường mà bạn muốn đi.

Xe xích lô:
Hiện nay ở Huế dịch vụ giao thông bằng phương tiện xích lô có thể nói là hấp dẫn nhất ở nội thành. Bởi Huế là một thành phố cổ kính, các ngã ba, ngã tư nhỏ hẹp, nếu như khách du lịch đi bằng taxi hoặc các loại xe hơi khác thì khó chiêm ngưỡng vẻ đẹp thơ mộng của xứ sở này.
Giá khách Tây thường là: 2USD/ 1h/ 1 người, còn khách du lịch Việt Nam: 15.000đ/ 1h/ 1 người.

Xe máy:
Hiện ở thành phố Huế các điểm cho thuê xe máy không nhiều. Chỉ tập trung ở một số khách sạn hoặc cơ sở tư nhân. Bạn có thể liên hệ ở lễ tân các khách sạn để thuê xe máy hoặc gọi trực tiếp số điện thoại: 847.238 (gặp anh Tiến). Giá thuê xe khoảng từ 10.000đ – 15.000đ/ 1h; từ 60.000đ – 70.000đ/ ngày (12 tiếng).

Một số địa điểm thuê xe máy ở Huế:
MOTORVINA: 14 Kiệt 42, Nguyễn Công Trứ, Tp Huế. SĐT: 0123.200.5599.
KHÁCH SẠN VỌNG CẢNH HUẾ: 1 Hùng Vương, Tp Huế. SĐT: 054.382.4130.
ANH CƯỜNG: 6/3 Kiệt 128, Nguyễn Chí Thanh, Tp Huế. SĐT: 0969.205.219 - 0903.513.264.
HUE MOTORBIKE ADVENTURE: 35/42 Nguyễn Công Trứ, Tp Huế. SĐT: 054.3624.044.
NAM THANH: 48 Lê Lợi, Tp Huế. SĐT: 054.3828.951.
THUÊ XE MÁY TẠI HUẾ: 29C/103 Nhật Lệ, Tp Huế. SĐT: 098.500.5113.
GEM’S CAFE (CHỊ NGỌC): 1/34 Nguyễn Tri Phương, Tp Huế. SĐT: 0914.230.914.
CHÚ HÒE: 2 Nguyễn Công Trứ, Tp Huế. SĐT: 0935.267.329.
ANH HIẾU: SĐT: 0905.902.412.
THUÊ XE MÁY TẠI HUẾ: 5B Bến Nghé, Tp Huế. SĐT: 0905.821.148 - 0168.900.1041.
TRƯỜNG THIỆN: 19 Đường Hà Nội, Tp Huế. SĐT: 054.383.1236.
THUÊ XE MÁY TẠI HUẾ: 3 Hùng Vương, Tp Huế. SĐT: 0914.099.806.
ANH TIẾN: 29C Chu Văn An, Tp Huế. SĐT: 0935.373.735.

Thuyền
Hiện nay thuyền rồng đưa du khách trên sông đã trở thành một phương tiện du lịch rất phổ biến và phồn vinh của Huế. Tất cả các loại thuyền (thuyền đơn chỉ đủ cho trên dưới 20 người, khoang thuyền rộng 2m dài 5-6m hoặc thuyền đôi có sức chứa 50-60 người) đều được đóng theo kiểu đầu rồng và sơn son phết lộng lẫy hai bên mạn thuyền.

Ngồi thuyền, lênh đênh trên sông nước, thưởng thức ca Huế và thả hoa đăng, du khách mới có thể thấm dần những hương vị, âm sắc của Huế.

Muốn thuê thuyền để đi trên sông Hương kết hợp nghe ca Huế bạn liên hệ về Ban quản lý bến thuyền.
Giá cả còn tuỳ vào việc bạn chọn tuyến du lịch bằng thuyền nào. Hiện nay, du lịch bằng thuyền rồng trên sông Hương có các tuyến sau:
- Huế - Linh Mụ: 80.000đ/ 1 chuyến/ 1 thuyền đơn (160.000đ / 1 thuyền đôi).
- Huế - Ðiện Hòn Chén: 100.000 đ/ 1 chuyến/ 1 thuyền đơn (200.000đ / 1 thuyền đôi).
- Huế - Lăng Minh Mạng: 135.000đ/ 1 chuyến/ 1 thuyền đơn (270.000đ / 1 chuyến / 1thuyền đôi).
- Huế - Bao Vinh: 50.000đ/ 1h/ 1 thuyền đơn.
Nếu bạn muốn nghe ca Huế thì phải thuê riêng: 270.000đ/ 1 xuất ( trong 1h30 phút cho đoàn dưới 20 người); 370.000đ/ 1 xuất (trong 1h30 phút cho đoàn dưới 60 người).

Taxi
Hiện tại có nhiều hãng taxi hoạt động tại thành phố Huế. Các bạn có thể chọn một số hãng sau:
- Taxi Mai Linh: Điện thoại: (84-54).3898.989.
- Taxi Thành Đô: Điện thoại: (84-54).858.585.
- Taxi Thành Hưng: Điện thoại: (84-54).863.863.
- Taxi Phú Xuân: Điện thoại: (84-54).878.787.
- Taxi Đông Ba: Điện thoại: (84-54).848.484.

Xe bus
Thành phố Huế hiện có 5 tuyến xe buýt chính:
- Ngã ba QL49, An Cựu - Bà Triệu - Trường Trung học Lý Thường Kiệt - Ngân Hàng Công Thương - Nhà trẻ Hoa Mai - Liên đoàn lao động Tỉnh - BV Trường ĐH Y Khoa - Bến Ngự - Bùng Binh 05 Lê Lợi - Trường Quốc Học - BV TW Huế - Thương Bạc - Đông Ba - Cửa Ngăn - Cửa Quảng Đức - Cửa Nhà Đồ - Bạch Hổ - Cửa Hữu - Cửa Chánh Tây - An Hòa - bến xe phía Bắc Cống Bạc - Dệt Thủy Dương - Chợ Dạ Lê - Ngã ba Phú Hồ - Chợ Thần Phù - Chợ Mai - Cây xăng 15 - Chợ TT Phú Bài - Ngã ba Phú Thứ - Ngã ba sân bay Phú Bài - khu CN Phú Bài - Ngã ba đường tránh - Chợ Phú Bài.

- Ngã ba QL49, An Cựu - 15B Hà Nội - In Thống Kê - Thương Bạc - Đông Ba - TT Festival - Tòa Khâm - KS Công đoàn - Chợ Vỹ Dạ - Nhà máy bia Huda - Chợ Mai - Trường TH Phan Đăng Lưu - nước nóng Mỹ An - Chợ Tân An - KS Hương Vỹ - Trường THPT Thuận An - Cảng Thuận An - Chợ Thuận An.

- Ngã ba QL49, An Cựu - 15B Hà Nội - In Thống Kê - Thương Bạc - Đông Ba - Cửa Ngăn - Cửa Quảng Đức - Cửa Nhà Đồ - Bạch Hổ - Cửa Hữu - Cửa Chánh Tây - An Hòa - Bến xe phía Bắc - Triệu Sơn - Gạch Tuy nen - Hương Xuân - Ga Văn Xá - Hương Văn - Chợ Tứ Hạ - Bưu Điện Tứ Hạ - Trường TH Tứ Hạ - Phú Ốc - An Lỗ.

- Ngã ba QL49, An Cựu - 15B Hà Nội - In Thống Kê - Thương Bạc - Đông Ba - BV TW Huế - Trường Quốc Học - Ga Huế - Chùa Bảo Quốc - Chùa Từ Đàm - Doanh trại Biên Phòng - Đàn Nam Giao - Cầu Lim - Ngã ba Cư Chánh - Thiên An - UBND Xã Thủy Bằng - Lăng Khải Định - Chợ Tuần.
Bánh canh Bà Đợi Huế

Bánh canh Bà Đợi Huế

Địa điểm, quán ăn món Bánh canh Bà Đợi Huế
1 3464 /images/foods/banh-canh-ba-doi-hue.jpg Bánh canh Bà Đợi Huế Nằm trên đường Đào Duy Anh, ở cuối một con hẻm nhỏ có một quán bánh canh không bảng hiệu. Dù bánh canh của quán này được thái sợi dẹt như kiểu Quảng Bình chứ không nén khuôn sợi tròn, nhưng nước dùng thì đặc phong cách Huế Bánh canh bà Đợi là một nơi dừng chân đông đảo của thực khách và khách du lịch Huế và đã có tuổi đời hơn 30 năm tồn tại.

Cái tên thú vị “bà Đợi” cũng có nguồn gốc của nó: Đó là do mọi người tới ăn thường phải đợi rất lâu, vì vậy mọi người đã gọi luôn là quán... “bà Đợi” ! Nước dùng của quán này có vị đậm đà và thơm tự nhiên của tôm.

Khi tô bánh canh được bưng ra, nước trong, chả và tôm tươi giòn sần sật, thực khách sẽ gia thêm tiêu, muối, chanh, tương ớt dầu và hành lá thái nhỏ bầy sẵn trên bàn, mặc dù tự nước dùng trong tô đã đủ ngon vị lắm rồi... Vì vậy mà hiếm khi khách bỏ sót nước dùng trong tô bánh canh ở quán bà Đợi.
Bánh chưng Nhật Lệ Huế

Bánh chưng Nhật Lệ Huế

Địa điểm, quán ăn món Bánh chưng Nhật Lệ Huế
2 3465 /images/foods/banh-chung-nhat-le-hue.jpg Bánh chưng Nhật Lệ Huế Con phố Nhật Lệ trong thành nội Huế, nổi tiếng bấy lâu nay với nghề bánh chưng truyền thống. Tại đây tập trung rất nhiều lò làm bánh chưng, tạo thành một làng nghề giữa lòng thành phố. Đặc biệt hơn khi mỗi dịp tết đến, không khí sản xuất và mua bán tại Nhật Lệ càng trở nên sôi động và nhộn nhịp hơn.

Trên con đường Nhật Lệ, người mua dễ dàng bắt gặp hình ảnh mua bán sản xuất sôi động của các lò bánh chưng. Nhà nào cũng có hàng chục nhân công làm bánh, mỗi người đảm trách mỗi khâu sản xuất. Từ giặt lá, vo nếp, làm đậu, gói bánh cho đến khâu nấu bánh. Quy trình làm việc tuy vẫn là thủ công truyền thống nhưng rất chuyên nghiệp và nhanh nhẹn. Ăn bánh chưng Nhật Lệ khi nguội ngon hơn khi nóng. Bóc lớp lá chuối ra, màu bánh xanh thơm nhức mắt. Cắn một miếng, nhân đậu thịt mỡ màu nâu trắng béo bùi ngập chân răng.
Bún bò Huế

Bún bò Huế

Địa điểm, quán ăn món Bún bò Huế
3 3463 /images/foods/bun-bo-hue.jpg Bún bò Huế Bún bò Huế chính là linh hồn của ẩm thực Huế, độ ngon và nổi tiếng của món ăn này chắc không phải bàn nhiều. Bún bò Huế có một miếng chân giò, một miếng giò tự nắm, một miếng tiết lợn nhỏ và tất nhiên phải có vài lát thịt bò. Rau ăn kèm cũng rất tươi và phong phú.

Hương vị đặc biệt của tô bún chính là ở nước dùng. Vị cay nồng của ớt, hương thơm của sả, một ít mắm ruốc kết hợp cùng nhau làm dậy lên mùi vị vô cùng đặc trưng của xứ Huế. Đó là lý do vì sao mà người dân nơi đây khi đi xa, bắt gặp những cửa tiệm mang tên “bún bò Huế” đều cảm thấy rất đỗi tự hào.

Địa chỉ ăn bún bò Huế nổi tiếng nhất: 13 Lý Thường Kiệt (cạnh Nhà khách Công đoàn). Ngoài ra, bạn có thể tìm đến nơi tập trung nhiều quán bún bò Huế như góc phố Trương Định – Phạm Hồng Thái, quán bún trên đường Lý Thường Kiệt, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Trãi,... cũng khá đông khách.
Các loại bánh Huế: Bánh bèo, bánh bột lọc, bánh khoái

Các loại bánh Huế: Bánh bèo, bánh bột lọc, bánh khoái

Địa điểm, quán ăn món Các loại bánh Huế: Bánh bèo, bánh bột lọc, bánh khoái
4 3468 /images/foods/cac-loai-banh-hue-banh-beo-banh-bot-loc-banh-khoai.jpg Các loại bánh Huế: Bánh bèo, bánh bột lọc, bánh khoái Có dịp đến Huế, mới thấy bánh bèo gắn bó với đời sống sinh hoạt của người dân cố đô như thế nào. Khoảng từ 3 đến 5 giờ chiều, trên các ngõ phố, những phụ nữ quẩy gánh trên vai hoặc chiếc thúng nhỏ cắp ngang hông, đi bán bánh bèo, bánh lọc đến từng nhà. Người Huế rất thích và đã thành thói quen dùng loại bánh đầy hương vị quê nhà này vào các bữa ăn phụ.

Các bạn có thể đến các “Khu phố Bánh bèo” như: cung An Định, đường Ngự Bình, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm... để tận mắt thưởng thức “văn hóa bánh bèo” tại đây. Bánh khoái đổ bằng bột gạo xay đánh sệt với nước và lòng đỏ trứng, sau đó thêm tiêu, hành, mắm, muối, tôm bóc vỏ, thịt bò (hoặc chim) nướng thái lát, mỡ thái lát nhỏ, giá sống. Bánh ngon một phần nhờ nước lèo, thứ nước chấm chỉ các đầu bếp giỏi mới chế được.

Ðây là bí quyết gia truyền, quyết định chất lượng, tạo nên hương vị thượng hạng của bánh khoái. Bánh khoái nổi tiếng nhất là bánh khoái Thượng Tứ, quán có 3 chi nhánh là Lạc Thiện, Lạc Thạnh và Bạch Yến.
Chè Hẻm Huế

Chè Hẻm Huế

Địa điểm, quán ăn món Chè Hẻm Huế
5 3466 /images/foods/che-hem-hue.jpg Chè Hẻm Huế Ông bà ta ngày xưa thường nói nếu ngoài Hà Nội có “36 phố phường” thì Huế cũng có “36 thứ chè”.

Chè Hẻm này nằm sâu tít trong đường Hùng Vương, nơi có một quán chè đã làm xiêu lòng thực khách suốt gần 30 năm. Bước vào quán là thấy ngay khung cảnh êm ái khi một bà cụ mặc áo lụa trắng, tóc cũng trắng, vừa chậm rãi múc chè vừa rủ rỉ nhắc cháu gái: “Phải múc chè như ri, thì chè mới không nát, ly chè mới đẹp mắt con nờ”. Bà tên là Trần Thị Linh Lan, 73 tuổi. Quán chè hẻm của bà mở từ năm 1985. Hồi ấy không có việc làm, bà nấu chè để bán, rồi gắn bó đến tận bây giờ. Từ bấy đến giờ vẫn 18 món chè, chỉ thêm chè bột lọc heo quay, thứ chè có viên thịt heo quay bọc trong bột lọc, vừa ngọt vừa mặn mà.

30 năm, bà vẫn giữ thói quen lựa từng hạt đỗ, từng loại cây trái. Hàng trăm hạt đỗ, hạt nào cũng mẩy tròn tăm tắp, mà khẽ cắn thì mềm thơm tan ra nơi đầu lưỡi. Mỗi sáng, bà dậy nấu chè từ lúc 5 - 6 giờ, hoặc 4 giờ nếu là mùa hè. Khách đến quán bà chẳng kể thời gian. Nhưng dù sớm hay muộn, ly chè bao giờ cũng ngon ngọt, đẹp đẽ một cách ý nhị như cách trân trọng khách của bà chủ người Huế hiền hòa.

Mỗi loại chè có một hương vị riêng, ngon bổ, tinh tế và cầu kỳ như chính con người nơi đây. Chè bắp ngọt mát tinh khiết, vừa thơm vừa bùi nấu từ bắp ngô non của cồn Hến, chè hạt sen với thứ hương trầm thật lạ của giống sen hồ Tịnh Tâm – loại sen “tiến vua”. Lại còn chè nhãn bọc hạt sen ngọt thanh, thơm bùi và nhiều loại chè như chè hạt lựu, chè trôi nước, chè khoai sọ, chè bột lọc...

Có một loại chè nghe rất lạ tai mà chỉ Huế mới có: chè bột lọc thịt heo quay. Được chế biến cầu kỳ từ những miếng thịt heo quay cắt khúc nhỏ, bọc ngoài là bột nếp, cho thêm đường nấu thành chè. Khi ăn, món chè này cho ta một cảm giác rất lạ, vừa ngọt lại vừa mặn, béo ngậy khó diễn tả thành lời...
Cơm chay Huế

Cơm chay Huế

Địa điểm, quán ăn món Cơm chay Huế
6 3469 /images/foods/com-chay-hue.jpg Cơm chay Huế Nếu bạn muốn có một bữa ăn thanh đạm và để cơ thể được thanh lọc thì hãy thử một bữa cơm chay tại Huế. Các món chay cũng rất đa dạng và phong phú, chỉ từ rau, củ, nấm, đậu phụ... nhưng bạn đã có một bữa cơm đầy đủ và thịnh soạn vô cùng.

Khách đến Huế, nếu thích được thưởng thức một bữa cơm chay thì ngoài những Phật tử biết nấu cơm chay ngon để mời thân mật ở gia đình, có thể liên hệ các chùa để thưởng thức một bữa cơm chay Huế đặc biệt. Bạn đến chùa nào cũng được, nhưng tốt hơn cả là chùa Từ Đàm, vì ở đây là chùa sư nữ nên có nhiều ni cô nấu cơm chay ngon, lại ở ngay trong thành phố – trên đường Điện Biên Phủ.

Ngoài ra, các bạn cũng có thể đến quán cơm chay Liên Hoa – số 3 đường Lê Quý Đôn để thưởng thức các món chay. Giá các món chay tại đây cũng khá rẻ.
Cơm hến Huế

Cơm hến Huế

Địa điểm, quán ăn món Cơm hến Huế
7 3462 /images/foods/com-hen-hue.jpg Cơm hến Huế Cơm hến là một đặc sản ẩm thực Huế. Cơm hến được trình bày dưới hình thức là cơm nguội trộn với hến xào qua dầu và gia vị, nước hến, mắm ruốc, rau bắp cải, tóp mỡ, bánh tráng nướng, mì xào giòn, ớt màu, đậu phộng nguyên hạt, dầu ăn chín, tiêu, vị tinh (bột ngọt, mì chính) và muối. Các món cải biên như bún hến và mì hến không phải là đặc sản Huế.

Cơm hến xuất phát từ tầng lớp bình dân vùng cồn Hến ven sông Hương, có thời từng được tiến vua, trở thành món ăn cung đình. Đây là món ăn dễ tìm kiếm khi du khách đến thăm Huế. Cơm hến tuy là món ăn dân dã có khắp mọi nơi dù ở thôn xóm hay đường quê, nghèo mà vẫn sang, đậm đà hương vị.

Cơm hến được làm từ cơm trắng nấu chín và để nguội. Người ta cho phần thịt hến cùng các phụ gia, thêm tóp mỡ được chiên giòn. Cơm hến có thêm chút mắm ruốc Huế vừa bùi, chát, cay và hăng. Được ăn kèm với phụ gia là rau sống gồm có: rau sống, bắp chuối, giá đỗ và ít thân khoai môn trắng thái nhỏ. Lạc được rang vàng và phi dầu vàng cho có màu đẹp mắt.

Cơm hến ngon nhất là ở cồn Hến, thuộc làng Cồn, xã Hương Lưu, phường Vĩ Dạ, cách trung tâm thành phố Huế chừng vài km. Sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An đã miêu tả cồn Hến là “một cù lao xinh đẹp. Cơm hến khá rẻ, một tô chỉ khoảng 15.000 đồng.
Nem lụi Huế

Nem lụi Huế

Địa điểm, quán ăn món Nem lụi Huế
8 3467 /images/foods/nem-lui-hue.jpg Nem lụi Huế Nhiều người thường nói “Nem lụi là một trong những món ăn đặc sệt Huế”. Ở đường Nguyễn Huệ có hai quán nem lụi. Suốt ngày đêm quán nào cũng chật ních người ăn. Khách hàng lần đầu ăn nem lụi, ai cũng xuýt xoa khen ngon để rồi ăn tiếp lần hai, lần ba, thậm chí ăn hàng ngày như dân “nghiện” và lần nào cũng vẫn cứ khen ngon.

Khi ăn, lấy bánh đa nem gói thịt viên nướng cùng với rau, thơm, khế, giá, lát chuối xanh thái mỏng, miếng vả thái sống, ớt màu... lấy lá hành buộc lại rồi chấm với một thứ nước đặc biệt gọi là nước lèo. Nước lèo dùng cho nem lụi được pha chế từ hàng chục nguyên liệu khác nhau như dầu thực vật, gan lợn, bột đao, đường, tương nước mắm, quế chi, hoa hổi trộn với nước cốt dừa.
0 8
3664 https://www.yong.vn/Content/images/travels/bai-bien-canh-duong.jpg Bãi biển Cảnh Dương Cảnh Dương là một trong những bãi biển đẹp ở Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế chừng 60 km về phía Nam. Bãi biển Cảnh Dương dài 8 km, rộng 200 m, hình vòng cung, nằm giữa mũi chân Mây Tây và chân Mây Ðông, bờ biển có độ dốc thoai thoải, cát trắng mịn, nước biển trong xanh và tương đối kín gió rất thuận lợi cho việc tổ chức các loại hình du lịch và thể thao. Bãi biển Cảnh Dương, Lộc Vĩnh, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Bãi biển Cảnh Dương, Lộc Vĩnh, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.329920, 107.961517
3663 https://www.yong.vn/Content/images/travels/bai-bien-thuan-an.jpg Bãi biển Thuận An Bãi biển Thuận An nằm bên cạnh cửa biển Thuận An cách thành phố Huế 15km về phía Đông, nơi dòng sông Hương đổ ra phá Tam Giang rồi thông ra biển. Thuận An là địa điểm thu hút rất đông người dân xứ Huế về hóng mát và tắm biển vào dịp hè. Thời kỳ tấp nập nhất ở đây thường kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9 lúc tiết trời nóng bức nhất. Du khách về Thuận An có thể đến tham quan miếu Thái Dương ở gần đó với sự tích nữ thần Thái Dương được dân làng hết sức sùng bái, hoặc thăm miếu Âm Linh thờ thần cá voi, con vật linh thiêng của dân miền biển. Bãi tắm Thuận An, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Bãi tắm Thuận An, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.570948, 107.63115
3656 https://www.yong.vn/Content/images/travels/bao-tang-my-thuat-cung-dinh-hue.jpg Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế là một viện bảo tàng tại số 3, Lê Trực, Tp Huế. Tòa nhà chính của viện bảo tàng bằng gỗ, có 128 cây cột gỗ quý, trên các cột có hình chạm khắc tứ linh: long – li – quy – phụng và hơn 1000 bài thơ bằng chữ Hán. Tòa nhà này chính là điện Long An xây năm 1845 dưới thời vua Hiến tổ nhà Nguyễn, niên hiệu là Thiệu Trị. Hiện bảo tàng trưng bày hơn 300 hiện vật bằng vàng, sành, sứ, pháp lam Huế, ngự y và ngự dụng, trang phục của hoàng thất nhà Nguyễn, cho khách tham quan một cái nhìn tổng thể về cuộc sống cung đình Huế. 03 Lê Trực, Thuận Thành, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam 03 Lê Trực, Thuận Thành, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.471208, 107.581869
3655 https://www.yong.vn/Content/images/travels/chua-thien-mu.jpg Chùa Thiên Mụ Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng - vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.

Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê.

Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh”. Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn.

Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là “Thiên Mụ”.
Chùa Thiên Mụ, Kim Long, Hương Long, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Chùa Thiên Mụ, Kim Long, Hương Long, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.453496, 107.545209
3661 https://www.yong.vn/Content/images/travels/dien-hon-chen.jpg Điện Hòn chén Núi Ngọc Trản xưa có tên là Hương Uyển Sơn, sau mới đổi tên là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc), dân gian vẫn quen gọi là Hòn Chén vì nó ngay ngắn tròn trĩnh như hình chén úp. Cũng vì vậy, người ta quen gọi ngôi điện thờ Thánh mẫu tọa lạc giữa lưng chừng núi là điện Hòn Chén – thuộc địa bàn làng Hải Cát, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà.

Điện Hòn Chén là một cụm di tích gồm khoảng 10 công trình kiến trúc to nhỏ khác nhau đều nằm lưng chừng sườn núi Ngọc Trản, hướng mặt ra sông Hương, ẩn mình dưới những tàng cây cao bóng cả. Mặt bằng của toàn bộ cụm di tích này không lớn lắm, công trình kiến trúc chính là Minh Kính Đài tọa lạc ở giữa; bên phải là nhà Quan Cư, Trinh Cát Viện, Chùa Thánh; bên trái là dinh Ngũ Hành, bàn thờ các quan, động thờ ông Hổ, am Ngoại Cảnh. Sát mép bờ sông còn có am Thủy Phủ. Ngoài ra, trong phạm vi ấy còn có nhiều bệ thờ, nhiều am nhỏ nằm rải rác đó đây.

Điện Hòn Chén không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là một thắng cảnh, một điểm tham quan văn hóa độc đáo thu hút hàng ngàn khách tham quan, nhất là vào dịp lễ hội tháng 3 và tháng 7 Âm lịch hàng năm.
Huyền Trân Công Chúa, Hương Thọ, Tx. Hương Trà, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Huyền Trân Công Chúa, Hương Thọ, Tx. Hương Trà, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.421966, 107.562933
3659 https://www.yong.vn/Content/images/travels/doi-thien-an-ho-thuy-tien.jpg Đồi Thiên An - hồ Thủy Tiên Thiên An là địa danh gồm nhiều ngọn đồi trồng thông phía Tây Nam thành phố Huế, gần lăng vua Khải Ðịnh. Trên đỉnh đồi có Tu viện Thiên An, chung quanh khu vực đồi có hồ Thủy Tiên và khu lăng mộ cổ Ba Vành, còn in dấu vết một nghi án xưa. Khung cảnh bình yên, không gian trong lành, Thiên An và Thủy Tiên là nơi nghỉ dưỡng cuối tuần khá thú vị. Hiện nay khu vực này là trung tâm vui chơi giải trí của Thừa Thiên Huế. hồ Tiên, Thủy, Thủy Bằng, Tx. Hương Thủy, Thừa Thiên Huế, Việt Nam hồ Tiên, Thủy, Thủy Bằng, Tx. Hương Thủy, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.407949, 107.578554
3660 https://www.yong.vn/Content/images/travels/doi-vong-canh.jpg Đồi Vọng Cảnh Đồi Vọng Cảnh là một ngọn đồi cao 43m ở phía Tây Nam thành phố Huế, chân đồi tiếp giáp bờ sông Hương. Nó tọa lạc giữa vùng lăng tẩm của các vua chúa nhà Nguyễn và đối diện với điện Hòn Chén được thiết lập từ thời xa xưa ở phái đối ngạn. Ở quanh quất cách đồi Vọng Cảnh khoảng năm bảy trăm mét là lăng Đồng Khánh, lăng Tự Đức, lăng Thiệu Trị, lăng Hiếu Đông (vợ vua Minh Mạng), lăng Xương Thọ (của bà Từ Dũ, vợ vua Thiệu Trị), lăng bà Thánh Cung (vợ vua Đồng Khánh), lăng bà Từ Cung (vợ vua Khải Định), lăng Hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long),...

Đứng trên đồi Vọng Cảnh, người ta có được một cái nhìn bao quát đối với nhiều di tích cổ kính và những cảnh đẹp tuyệt vời ở một không gian thiên nhiên rộng lớn chung quanh, đặc biệt nhất là vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Hương. Ngọn đồi nằm giữa một khúc uốn mềm mại, dịu dàng và hấp dẫn nhất của dòng sông nổi tiếng đa tình và gợi cảm này. Đây là nơi sông núi xích lại gần nhau để tạo ra một không gian sơn kỳ thủy tú.
Huyền Trân Công Chúa, Phường Thuỷ Biều, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Huyền Trân Công Chúa, Phường Thuỷ Biều, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.427071, 107.564735
3666 https://www.yong.vn/Content/images/travels/hai-van-quan.jpg Hải Vân Quan Ngày xưa, Hải Vân Quan là một vị trí chiến lược xung yếu của Thuận Hóa – Phú Xuân – Huế về quân sự cũng như giao thông bằng đường bộ, đó là cửa ngỏ phía nam của vùng đất này. Hải Vân Quan nằm ở đỉnh đèo vắt qua một rặng núi đâm ngang ra biển từ dãy Trường Sơn. Đỉnh đèo Hải Vân ở độ cao 496m so với mực nước biển; cách Huế 77,3km về phía Nam và cách Đà Nẵng 28,7km về phía bắc.

Trong “Dư địa chí” đầu tiên của nước ta do Nguyễn Trãi biên soạn vào năm 1435, tác giả đã nói đến địa danh “Ai Vân”, như là một yếu điểm trên con đường từ Thuận Hóa đi vào Quảng Nam. Và hiện nay, cùng với Lăng Cô – Bạch Mã – Cảnh Dương, Hải Vân Quan là một điểm đang thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan thưởng ngoạn cảnh đẹp hùng vĩ của núi rừng và biển.
Đèo Hải Vân, tt. Lăng Cô, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Đèo Hải Vân, tt. Lăng Cô, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.210159, 108.10895
3662 https://www.yong.vn/Content/images/travels/ho-tinh-tam.jpg Hồ Tịnh Tâm Hồ Tịnh Tâm là một trong những thắng cảnh nổi tiếng của đất Kinh thành, nay thuộc địa phận phường Thuận Thành, Thành phố Huế. Nguyên xưa, hồ là một đoạn sông Kim Long được cải tạo lại, tên ban đầu là ao Ký Tế. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), triều Nguyễn đã huy động tới 8000 binh lính tham gia vào việc cải tạo hồ, biến nó trở thành một Ngự Uyển của Hoàng gia. Sau khi hoàn thành, hồ mang tên mới là Tịnh Tâm.

Hồ Tịnh Tâm có bình diện hình chữ nhật, chu vi gần 1500m (354 trượng 6 thước). Trên hồ có ba hòn đảo Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Đảo Bồng Lai, ở phía nam hồ, chính giữa có điện Bồng Doanh, 3 gian 2 chái, mái trùng diêm, lợp ngói Hoàng lưu li. Điện xây mặt về hướng nam, có lan can gạch bao quanh, phía trước lại có cửa Bồng Doanh, rồi cầu Bồng Doanh nối đảo với bờ hồ phía nam. Phía đông điện Bồng Doanh có nhà Thủy tạ Thanh Tâm, quay mặt về hướng đông. Phía tây điện có lầu Trừng Luyện, quay mặt về hướng tây. Phía bắc là cửa Hồng Cừ và một chiếc cầu cùng tên.

Trên đảo Phương Trượng, chính giữa có gác Nam Huân, quay mặt về hướng nam, 2 tầng, mái lợp ngói hoàng lưu li. Phía nam có cửa Bích Tảo và cầu Bích Tảo. Phía bắc đảo có lầu Tịnh Tâm, xây mặt hướng bắc. Phía đông có nhà Hạo Nhiên (từ năm 1848 đổi thành Thiên Nhiên), quay mặt về hướng đông. Phía tây có hiên Dưỡng Tính quay mặt về hướng tây. Giữa hai đảo có đình Tứ Đạt nằm giữa một hệ thống hành lang mái lợp ngói gồm 44 gian, chạy nối vào cầu Bích Tảo ở phía nam và cầu Hồng Cừ ở phía bắc.

Giữa hồ Tịnh tâm có đê Kim Oanh nối liền từ bờ đông qua bờ tây. Phía đông đê có cầu Lục Liễu, 3 gian, mái lợp ngói. Phía nam, đê gắn với một hành lang dài 56 gian, ở giữa là cầu Bạch Tần. Phía nam cầu có nhà tạ Thanh Tước để thuyền vua ngự. ở đoạn cuối phía tây của hành lang lại có nhà Khúc Tạ, thông với một nhà tạ khác, là Khúc Tạ Hà Phong qua một hành lang nhỏ dựng trên mặt nước. Phía nam nhà tạ này là đảo Doanh Châu.

Trên các góc của đảo Bồng Lai, Phương Trượng đều có xếp đá tạo các giả sơn. Riêng đảo Doanh Châu được tạo dáng như một hòn non bộ lớn nổi trên mặt hồ. Khắp nơi chung quanh đảo Bồng lai, Phương Trượng, đê Kim Oanh và dọc bờ hồ đều trồng các loại liễu trúc và các thứ hoa cỏ lạ. Dưới hồ chỉ trồng duy nhất loại sen trắng.

Hồ Tịnh Tâm được ngăn cách với bên ngoài bằng một vòng tường gạch xây khá cao. Ở bốn mặt trổ bốn cửa: Hạ Huân ở phía nam, Đông Hy ở phía bắc, Xuân Quang ở phía đông và Thu Nguyệt ở phía tây...

Với kiểu kiến trúc cầu kỳ, nhưng hết sức hài hòa với tự nhiên, hồ Tịnh Tâm được xem là một thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan Việt Nam thế kỷ XIX. Cảnh đẹp của hồ đã tạo nguồn thi hứng và trở thành đề tài cho nhiều bài thơ, chùm thơ nổi tiếng của các vua Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… Nổi bật hơn cả vẫn là bài Tịnh Hồ Hạ Hứng, nằm trong chùm thơ ca ngợi 20 cảnh đẹp đất Thần Kinh của vua Thiệu Trị. Đương thời, bài thơ này cùng với phong cảnh hồ Tịnh Tâm được vẽ vào tranh gương để treo ở các cung điện.

Từ cuối thế kỷ XIX, do thiếu điều kiện chăm sóc, các kiến trúc ở khu vực hồ Tịnh Tâm bị hư hỏng dần hoặc bị triệt giải. Năm 1946, vòng tường gạch bao quanh hồ bị phá để xây dựng một vòng tường thấp hơn. Năm 1960, trên nền điện Bồng Doanh cũ có dựng một ngôi đình bát giác nhỏ để kỷ niệm. Trong lần tu bổ này một cây cầu bê tông đã được xây dựng để nối đảo Bồng Lai với đê Kim Oanh...
Hồ Tịnh Tâm, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Hồ Tịnh Tâm, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.477374, 107.576035
3649 https://www.yong.vn/Content/images/travels/hoang-thanh-hue.jpg Hoàng Thành Huế Hoàng Thành là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành - nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Người ta thường gọi chung Hoàng Thành và Tử Cấm Thành là Đại Nội.

Hoàng Thành được xây dựng năm 1804, nhưng mãi đến năm 1833 đời vua Minh Mạng mới hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống cung điện với khoảng hơn 100 công trình.

Hoàng Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600 mét, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào: Cửa chính (phía Nam) là Ngọ Môn, phía Đông có cửa Hiển Nhơn, phía Tây có cửa Chương Đức, phía Bắc có cửa Hòa Bình. Các cầu và hồ được đào chung quanh phía ngoài thành đều có tên Kim Thủy.

Hoàng Thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong được bố trí trên một trục đối xứng, trong đó trục chính giữ được bố trí các công trình chỉ dành cho vua. Các công trình ở hai bên được phân bố chặt chẽ theo từng khu vực, tuân thủ nguyên tắc (tính từ trong ra): “tả nam hữu nữ”, “tả văn hữu võ”. Ngay cả trong các miếu thờ cũng có sự sắp xếp theo thứ tự “tả chiêu hữu mục” (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian).

Mặc dù có rất nhiều công trình lớn nhỏ được xây dựng trong khu vực Hoàng Thành nhưng tất cả đều được đặt giữa thiên nhiên với các hồ lớn nhỏ, vườn hoa, cầu đá, các hòn đảo và các loại cây lưu niên tỏa bóng mát quanh năm. Mặc dù quy mô của mỗi công trình có khác nhau, nhưng về tổng thể, các cung điện ở đây đều làm theo kiểu “trùng lương trùng thiềm” (hay còn gọi là “trùng thiềm điệp ốc” – kiểu nhà kép hai mái trên một nền), đặt trên nền đá cao, vỉa ốp đá Thanh, nền lát gạch Bát Tràng có tráng men xanh hoặc vàng, mái cũng được lợp bằng một loại ngói đặc biệt hình ống có tráng men thường gọi là ngói Thanh lưu ly (nếu có màu xanh) hoặc Hoàng lưu ly (nếu có màu vàng). Các cột được sơn thếp theo mô típ long-vân (rồng-mây). Nội thất cung điện thường được trang trí theo cùng một phong cách nhất thi nhất họa (một bài thơ kèm một bức tranh) với rất nhiều thơ bằng chữ Hán và các mảng chạm khắc trên gỗ theo đề tài bát bửu, hay theo đề tài tứ thời).

Khu vực phòng vệ: gồm vòng thành bao quanh bên ngoài, cổng thành, các hồ (hào), cầu và đài quan sát.

Khu vực cử hành đại lễ, gồm các công trình:
- Ngọ Môn, cửa chính của Hoàng Thành – nơi tổ chức lễ Duyệt Binh, lễ Truyền Lô (đọc tên các Tiến sĩ tân khoa), lễ Ban Sóc (ban lịch năm mới).
- Điện Thái Hòa - nơi cử hành các cuộc lễ Đại Triều một tháng 2 lần (vào ngày 1 và 15 Âm lịch), lễ Đăng Quang, lễ Vạn Thọ, lễ Quốc Khánh...

Khu vực các miếu thờ: được bố trí ở phía trước, hai bên trục dọc của Hoàng Thành theo thứ tự từ trong ra gồm:
- Triệu Tổ Miếu ở bên trái thờ Nguyễn Kim.
- Thái Tổ Miếu thờ các vị chúa Nguyễn.
- Hưng Tổ Miếu ở bên phải Nguyễn Phúc Luân.
- Thế Tổ Miếu thờ các vị vua nhà Nguyễn.

Khu vực dành cho bà nội và mẹ vua (phía sau, bên phải), gồm hệ thống cung Trường Sanh (dành cho các Thái hoàng Thái hậu) và cung Diên Thọ (dành cho các Hoàng Thái hậu).

Khu vực dành cho các hoàng tử học tập, giải trí như vườn Cơ Hạ, điện Khâm văn... (phía sau, bên trái).

Ngoài ra còn có kho tàng (Phủ Nội Vụ) và các xưởng chế tạo đồ dùng cho hoàng gia (phía trước vườn Cơ Hạ).

Khu vực Tử Cấm Thành nằm trên cùng một trục Bắc - Nam với Hoàng Thành và Kinh Thành, gồm một vòng tường thành bao quanh khu vực các cung điện như:
- Điện Cần Chánh (nơi vua tổ chức lễ Thường triều).
- Điện Càn Thành (chỗ ở của vua).
- Cung Khôn Thái (chỗ ở của Hoàng Quý phi)
- Lầu Kiến Trung (từng là nơi ở của vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương).

Nhà đọc sách và các công trình khác phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của nhà vua và gia đình như Thượng Thiện Đường (nơi phục vụ ăn uống), Duyệt Thị Đường (nhà hát hoàng cung)... Đến nay, trải qua bao biến động và thời gian, hàng trăm công trình kiến trúc ở Đại Nội chỉ còn lại ít ỏi chiếm không đầy một nửa con số ban đầu.
Lê Duẩn, Thuận Thành, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Lê Duẩn, Thuận Thành, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.467772, 107.578913
3665 https://www.yong.vn/Content/images/travels/lang-co-dam-lap-an.jpg Lăng Cô, đầm Lập An Bãi tắm Lăng Cô dài khoảng 8km, nằm dọc Quốc lộ 1A, cạnh đèo Hải Vân và cách Vườn Quốc gia Bạch Mã 24km. Ðây là một bãi tắm có bờ biển thoải, cát trắng, sóng vừa và lớn, thủy triều lên xuống theo chế độ bán nhật triều với mức chênh lệch thấp (chỉ khoảng 0,7-0,8m), rất thích hợp cho loại hình du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng, lặn biển, và đã được xác định là một khu nghỉ mát lý tưởng từ mấy chục năm nay. Nằm liền kề bãi tắm Lăng Cô là núi Hải Vân – Hải Vân Quan một thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam. Dọc theo chân núi Hải Vân, biển Lăng Cô có dải san hô, tôm hùm và nhiều loại hải sản có giá trị cao. Trong khu vực đó còn có hòn Sơn Chà (đảo nhỏ), tại đây còn bảo tồn nhiều loại động, thực vật hoang dã.

Phía sau bãi tắm là đầm Lập An và dãy núi Bạch Mã. Tất cả những yếu tố đó mang lại cho Lăng Cô tiềm năng to lớn về phát triển nhiều loại hình dịch vụ du lịch: nghỉ mát, lặn biển, tìm hiểu hệ động – thực vật hoang dã, nuôi trồng thủy sản...
An Cư Đông, tt. Lăng Cô, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, Việt Nam An Cư Đông, tt. Lăng Cô, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.234680, 108.085771
3653 https://www.yong.vn/Content/images/travels/lang-khai-dinh.jpg Lăng Khải Định Lăng khởi công ngày 4 tháng 9 năm 1920 và kéo dài suốt 11 năm mới hoàn tất. Tham gia xây dựng lăng có rất nhiều thợ nghề và nghệ nhân nổi tiếng khắp cả nước như Phan Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả, Ký Duyệt, Cửu Sừng... So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Định có diện tích khiêm tốn hơn nhiều, với kích thước 117 m × 48,5 m nhưng ngược lại cực kỳ công phu và tốn nhiều thời gian. Để xây lăng, Khải Định cho người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói Ardoise..., cho thuyền sang Trung Hoa, Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh màu... để kiến thiết công trình.

Về kiến trúc lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi cái mới, cái lạ, cái độc đáo, cái ngông nghênh, lạc lõng… tạo ra từ phong cách kiến trúc. Về tổng thể, lăng là một khối hình chữ nhật vươn lên cao có 127 bậc cấp. Sự xâm nhập của nhiều trường phái kiến trúc như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique… đã để lại dấu ấn trên những công trình cụ thể:
- Những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ.
- Trụ biểu dạng stoupa của Phật giáo.
- Hàng rào như những cây thánh giá khẳng khiu.
- Nhà bia với những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể...

Điều này là kết quả của hai yếu tố: sự giao thoa văn hóa Đông - Tây trong buổi giao thời của lịch sử và cá tính của Khải Định.
Lăng Khải Định (Ứng Lăng), Khải Định, Thủy Bằng, Tp. Huế, Huế, Việt Nam Lăng Khải Định (Ứng Lăng), Khải Định, Thủy Bằng, Tp. Huế, Huế, Việt Nam | 16.399118, 107.590313
3652 https://www.yong.vn/Content/images/travels/lang-minh-mang.jpg Lăng Minh Mạng Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng, nằm trên núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lãng là nơi hội lưu của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, cách cố đô Huế 12 km. Lăng Minh Mạng được xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 thì hoàn thành, huy động tới mười nghìn thợ và lính.

Lăng Minh Mạng có bố cục kiến trúc cân bằng đối xứng, xung quanh một trục kiến trúc là đường thần đạo, xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính, sân chầu, nhà bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân (thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu), hồ Trừng Minh, Minh Lâu, hồ Tân Nguyệt (trăng non), cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, Trung Đạo kiều và cuối cùng là Bửu thành (mộ vua Minh Mạng). Lăng có diện tích 18 ha (nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha), xung quanh lăng có La thành bao bọc. Cửa chính của lăng tên là Đại Hồng môn, là cửa chỉ để rước linh cữu của vua nhập lăng. Hai bên cửa chính là hai cửa Tả Hồng môn và Hữu Hồng môn. Hồ Trừng Minh gồm hai nửa nối thông với nhau ở phía sau điện Sùng Ân nơi có ba cây cầu đá bắc qua, giống như hai lá “phổi xanh”, bao bọc lấy điện Sùng Ân và các kiến trúc vòng ngoài nằm trên trục thần đạo (khu vực tưởng niệm). Ở giữa hai hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt, trên đường thần đạo, là Minh Lâu. Hồ Tân Nguyệt hình vầng trăng non ôm lấy một phần khu mộ vua (Bửu thành). Bửu thành là một quả đồi thông hình tròn, bao quanh bởi tường thành, bên trong, sâu bên dưới là mộ vua. Ở chính giữa hồ Tân Nguyệt có một cây cầu mang tên Trung Đạo kiều, nối Minh Lâu với Bửu thành và đường dạo quanh lăng. Phía sau Bửu thành là rừng thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch. Trên mặt cắt kiến trúc dọc theo đường thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng cho công trình kiến trúc lăng tẩm này. Bố cục kiến trúc đăng đối của các hạng mục chính trong lăng đem lại cho lăng một vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ. Tuy vậy, ở ngoài rìa, men theo con đường dạo quanh co vòng quanh hai hồ nước và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh như: đình Điếu Ngư, gác Nghênh Phong, hiên Tuần Lộc, sở Quan Lan, Tạ Hư Hoài... làm cho toàn bộ quần thể lăng uy nghiêm nhưng vẫn hài hòa với thiên nhiên và duyên dáng tráng lệ.

Trong khoảng diện tích được giới hạn bởi vòng La thành dài 1.750 m là một quần thể kiến trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ được bố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700 m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ vua. Hình thể lăng tựa dáng một người nằm nghỉ trong tư thế thoải mái, đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự nhiên.
Lăng Minh Mạng (Hiếu Lăng), QL49, Hương Thọ, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Lăng Minh Mạng (Hiếu Lăng), QL49, Hương Thọ, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.387487, 107.570743
3650 https://www.yong.vn/Content/images/travels/lang-tu-duc.jpg Lăng Tự Đức Lăng Tự Đức là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất vua Tự Đức tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi vua Tự Đức băng hà, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng.

Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.

Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi. Lối đi lát gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm đi qua trước Khiêm Cung Môn rồi uốn lượn quanh co ở phía trước lăng mộ. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần là khu điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí của vua. Đầu tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn – một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách… Ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm bắt qua hồ dẫn đến đồi thông.

Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Đường – nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn. Có một hành lang từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì Khiêm Viện và Y Khiêm Viện là chỗ ở của các cung phi theo hầu nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng Khiêm Viện, Dung Khiêm Viện và vườn nuôi nai của vua.

Sau khu vực tẩm điện là khu lăng mộ. Ngay sau Bái Đình với hai hàng tượng quan viên văn võ là Bi Đình với tấm bia bằng đá Thanh Hóa nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm Cung Ký” do chính Tự Đức soạn. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức thần công” trong các lăng khác. Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình, kể công và nhận tội của Tự Đức trước lịch sử. Đằng sau tấm bia là hai trụ biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng cùng với hồ Tiểu Khiêm hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội.
Lăng Tự Đức Khiêm Lăng, Thủy Xuân, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Lăng Tự Đức Khiêm Lăng, Thủy Xuân, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.433155, 107.566049
3654 https://www.yong.vn/Content/images/travels/nha-vuon-hue.jpg Nhà vườn Huế Huế không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc thiên nhiên mơ mộng hữu tình mà còn đặc biệt hấp dẫn với chiều sâu của vẻ đẹp văn hóa tinh thần kết đọng nhuần nhị nơi mỗi nét kiến trúc. Cùng với các lăng tẩm trầm mặc. Hoàng thành cổ kính, những ngôi nhà vườn êm ả thanh bình ở đây làm nên “thành phố nhà vườn” Huế.

Được xây theo luật “dịch lý” và “phong thủy”, nhà vườn Huế là tập hợp của một hệ thống kiến trúc sắp xếp theo chiều Bắc - Nam. Tuy rộng hẹp khác nhau, nhưng nhà nào cũng có kiến trúc tổng thể giống nhau, bao gồm: cổng, ngõ, bình phong, hòn non bộ, bể cạn, sân, nhà. Cổng thường xuyên xây bằng gạch, lối vào ngõ thường được trồng những hàng râm bụt hoặc chè tàu cắt xén cẩn thận. Bình phong cũng thường xây bằng gạch. Sau bình phong là bể cạn có hòn non bộ, một mảnh sân rộng rồi mới đến nhà. Xung quanh nhà trồng rất nhiều cây, hoa quanh năm tươi tốt.

Trong khu nhà vườn ấy, không thể không nói tới ngôi nhà rường cổ. Nhà rường thường được làm bằng gỗ, chúng được cầu hỳ hóa bằng nhiều nét văn hoa chạm trổ, trong liên kết của kết cấu nhà, thay cho đóng đinh là kỹ thuật mộng tinh xảo. Nhà rường có nhiều dạng: một gian hai chái, ba gian hai chái, năm gian hai chái, nhà rường lầu… rường là cách nói ngắn gọn của rường cột, nhà có hệ thống cột kèo gỗ được dựng lên theo những quy cách nhất định. Dù lớn đến đâu, nhà rường cũng được kết cấu hoàn toàn bằng chốt, mộng gỗ để có thể lắp ráp và tháo dỡ dễ dàng. Trong nhà bày sập gụ, tủ chè, treo hoành phi, câu đối, đồ đạc được bài trí hài hòa hợp lý, tạo cho nhà rường cái thần thái riêng biệt.

Nhìn cảnh quan một nhà vườn Huế, người ta dễ dàng nhận ra được tâm hồn và phong cách sống của chủ nhân. Nhà vườn Huế thể hiện sự hòa hợp giữa đời sống con người và cây cỏ, giữa nếp sống tinh thần và vật chất, tất cả đều bổ sung cho nhau, để tạo nên sự cân bằng trong cuộc sống.
58 Nguyễn Phúc Nguyên, Hương Long, Tp. Huế, Huế, Việt Nam 58 Nguyễn Phúc Nguyên, Hương Long, Tp. Huế, Huế, Việt Nam | 16.454786, 107.553867
3667 https://www.yong.vn/Content/images/travels/nui-bach-ma.jpg Núi Bạch Mã Núi Bạch Mã cách Huế 60km về phía Nam, ở độ cao 1.450m, là nơi nghỉ mát nổi tiếng ở Việt Nam. Trên đỉnh núi hùng vỹ 4 mùa xanh tươi với thác nước, suối rừng, là cả một vùng khí hậu ôn đới như ở SaPa, Tam Ðảo, Ðà Lạt... Núi Bạch Mã còn là nơi quy tụ nhiều loại động vật và thực vật quý hiếm ở miền nhiệt đới.

Núi Bạch Mã nổi tiếng bởi có những con suối và nhiều ngọn thác ngoạn mục. Thác Ðỗ Quyên cao 400m, rộng 20m, nhữngngày hè, hai bên bờ thác, hoa Ðỗ Quyên nở rộ như hai thảm lụa hoa khổng lồ. Ở trung tâm khu nghỉ mát có ngọn thác Bạc cao 10m, rộng 40m như một bức rèm trắng muốt đung đưa trước gió.

Ðứng trên đỉnh núi Bạch Mã bạn có thể thu vào tầm mắt toàn cảnh lộng lẫy của đèo Hải Vân, núi Túy Vân, đầm Cầu Hai và ánh điện lung linh của thành phố Huế vào ban đêm.
Hòa Bắc, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Hòa Bắc, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.182035, 107.905655
3658 https://www.yong.vn/Content/images/travels/nui-ngu-binh.jpg Núi Ngự Bình Núi Ngự Bình (còn gọi là Bằng Sơn) cao 105 m, dáng cân đối uy nghi. Hai bên Bằng Sơn có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Vương triều Nguyễn khi xây dựng kinh thành Huế đã chọn núi này làm tiền án của hệ thống phòng thành đồ sộ, kiên cố và đổi tên cho ngọn núi này là Ngự Bình.

Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình là quà tặng vô giá thứ hai của tạo hoá, quyện vào nhau tạo nên vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình của Huế. Từ lâu, ngọn núi xinh đẹp này cùng với sông Hương trong xanh đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế. Người ta quen gọi Huế là xứ sở của sông Hương – núi Ngự, miền Hương Ngự.
Núi Ngự Bình, An Cựu, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Núi Ngự Bình, An Cựu, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.441968, 107.595638
3672 https://www.yong.vn/Content/images/travels/pha-tam-giang.jpg Phá Tam Giang Tam Giang là hợp lưu của ba con sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương trước khi đổ vào biển Đông. Vì thế phá Tam Giang mang tính “biểu tượng” về môi trường sinh thái của Thừa Thiên – Huế xưa và nay. Không một du khách nào đến đây, lại bỏ qua địa danh nổi tiếng này.

Đây là vùng đất ngập mặn lớn nhất Đông Nam Á, mặt nước rộng 248,7 km2, khơi đầu từ cửa sông Ô Lâu ở phía bắc đến cửa sông Hương ở phía nam. Đầm phá bao đời nay có rất nhiều động vật thủy sinh, nhiều nhất ở các cửa biển Thuận An, cửa sông Ô Lâu, sông Bồ, đầm Thủy Tú. Cầu Hai, Hiện nay đã xác định được 163 loài cá, nhiều loài quý hiếm như cá vược, cá chình. Tùy theo mùa, còn một số loài cá di cư vào đầm phá để sinh sản như cá mòi, cá cơm biển… Ngược lại, cá đối, cá mú, cá dìa sống trong đầm phá lại di cư ra biển để đẻ trứng. Quanh năm, ngư dân đánh bắt được trên đầm phá khoảng 23 loài cá có giá trị kinh tế cao là cá dầy, cá dìa, cá bống thệ, cá hanh, cá hồng, cá căn...

Bề mặt đầm phá có thảm thực vật tự nhiên nên các loài chim nước tụ tập về đây, tạo thành các sân chim lớn tại cửa sông Ô Lâu, cửa sông Đại Giang và đầm Sam. Qua theo dõi, đã phát hiện được 34 loài chim di cư, 36 loài chim định cư, đặc biệt có 21 loài chim thuộc danh mục bảo vệ nghiêm ngặt của cộng đồng Châu Âu và một loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam. Đồng thời, ông Trời dường như muốn bù đắp cho ngư dân đầm phá những thiệt hại trong mùa bão lũ, nên hằng năm cứ đến cuối tháng 11, đầm phá lại vào mùa cá giống ngoài biển di cư vào. Lý do là đầm phá vốn có một loài rong tảo quý hiếm không nơi nào có được, người địa phương gọi tên nó là rong hẹ hoặc rong cỏ kiệu. Đây là món ăn ưa thích và cũng là nơi sinh trưởng lý tưởng của ba loài cá đặc sản: cá mú, cá hồng và cá nâu. Tại các khu vực đầm phá nước cạn như Cồn Tè, Cồn Sơn, Cồn Đờn có hàng hà đàn cá con ( cá mú, cá hồng, cá dìa) di cư từ biển Đông vào trú ngụ, ngư dân chỉ việc thả lưới ( gọi là đi dũi) bắt về bán cho các trại cá giống từ Quảng Ninh vào, Nha Trang- Khánh Hòa ra mua tại chỗ. Hết mỗi đợt không khí lạnh, từng đàn cá giống ấy bơi qua các doi cát, tìm vào các con lạch, người dân mặc sức vây lưới đánh bắt. Mỗi con cá giống chỉ bằng mút đũa giá 600 đồng/con. Về cuối năm, giá lên đến 2.500- 3.000 đồng/con.

Đầm phá đối diện với biển Đông trải dài hơn 68 km, chỉ ngăn cách với biển bởi một dãi cát hẹp, thông thương qua hai cửa biển Thuận An và Tư Hiền. Do đó nó có khả năng tự làm sạch môi trường nước và luôn được sóng gió biển Đông ùa vào bên trong, trở thành một “buồng phổi” lớn để điều hòa môi trường sinh thái cho toàn tỉnh Thừa Thiên Huế một cách tự nhiên và thường xuyên.
Phá Tam Giang, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Phá Tam Giang, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.620200, 107.497265
3668 https://www.yong.vn/Content/images/travels/song-an-cuu.jpg Sông An Cựu An Cựu là tên một con sông nhỏ, chi lưu của sông Hương, ở phía Nam kinh thành Huế. Sông có nhiều tên gọi như Lợi Nông, Phủ Cam, Đại Giang, Hà Tự, Cống Quan, tên phổ biến ở Huế là sông An Cựu. Toàn bộ dòng sông dài khoảng 30km, bắt đầu lấy nước sông Hương từ đoạn cuối cồn Dã Viên, chảy qua địa phận Thành phố Huế, huyện Hương Thủy rồi đổ vào phá Hà Trung. Từ khi các chúa Nguyễn chọn Kim Long, rồi Phú Xuân là thủ phủ của Đàng Trong, 2 bên bờ sông An Cựu đã là nơi tập trung dinh thự, nhà vườn của các quan lại, quý tộc. Tuy nhiên lúc này sông còn nhỏ, nhiều đoạn cạn hẹp. Năm Gia Long 13 (1814), sau khi khảo sát tình hình và hỏi ý kiến các vị bô lão ở xã Thanh Thủy, nhà vua đã cho khơi đào thêm sông An Cựu và cho đắp đập Thần Phủ ở phía dưới để lấy nước tưới tiêu, rửa mặn cho hành vạn mẫu ruộng ở khu vực này. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), sông An Cựu được đổi tên thành sông Lợi Nông. Bia đá khắc tên này vẫn còn. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) khi đúc Cửu Đỉnh, hình ảnh và tên sông đã được khắc vào Chương Đỉnh. sông An Cựu, Thừa Thiên Huế, Việt Nam sông An Cựu, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.456309, 107.599207
3657 https://www.yong.vn/Content/images/travels/song-huong-hue.jpg Sông Hương - Huế Sông Hương có hai ngọn nguồn. Nguồn Tả Trạch xuất phát từ dãy núi Trường Sơn chảy về hướng Tây Bắc qua 55 ngọn thác hùng vĩ, nguồn Hữu Trạch ngắn hơn sau khi vượt 14 ngọn thác hiểm trở và đến ngã ba Bằng Lãng (ngã ba Tuần) hợp dòng với Tả Trạch thành sông Hương thơ mộng. Sông Hương dài 30 km (nếu chỉ kể từ Bằng Lãng đến cửa Thuận An), độ dốc của dòng nước so với mặt biển không chênh lệch nhiều nên nước sông chảy chậm. Sắc nước sông Hương trở nên xanh hơn khi vượt qua chân núi Ngọc Trản – điện Hòn Chén, tạo nên một lòng vực sâu thẳm.

Sông Hương đẹp từ nguồn, uốn lượn quanh co giữa núi rừng trùng điệp, đồi cây, mang theo những mùi vị hương thơm của thảo mộc rừng nhiệt đới. Dòng sông chầm chậm lướt qua các làng mạc xanh tươi, rợp bóng cây của Kim Long, Nguyệt Biều, Vĩ Dạ, Ðông Ba, Gia Hội, Chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh, quyện theo mùi thơm của các loài hoa xứ Huế. Dòng sông xanh trong vắt lung linh như ngọc bích dưới ánh mặt trời, những con thuyền Huế xuôi ngược, dọc ngang với điệu hò man mác, trầm tư, sâu lắng giữa đêm khuya. Ði chơi bằng thuyền để được ngắm cảnh Hương giang thơ mộng, nghe những điệu hò, dân ca xứ Huế lúc trời đêm thanh vắng là thú vui muôn thuở của bao lớp du khách...
Sông Hương, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Sông Hương, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.452126, 107.552912
3670 https://www.yong.vn/Content/images/travels/suoi-khoang-thanh-tan.jpg Suối khoáng Thanh Tân Nước khoáng Thanh Tân nằm sâu hàng nghìn mét dưới lòng đất, chứa Calcium Sunfat và Silicium... rất tốt cho cơ thể. Vì thế, đây là điểm đến thích hợp với nhiều du khách trong tiết trời se se lạnh, giao mùa.

Được phát hiện năm 1928 bởi các nhà khoa học Pháp, suối khoáng Thanh Tân nhanh chóng được nghiên cứu, ứng dụng làm nước giải khát phục hồi sức khỏe con người. Năm 1983, nguồn nước này được Bộ Y tế cho phép khai thác làm nước uống đóng chai. Tuy nhiên, đến cuối năm 2000, khu du lịch suối nước khoáng Thanh Tân mới trở nên thông dụng và được nhiều người biết tới. Khu du lịch suối khoáng Thanh Tân xây dựng trên diện tích 50 ha. Bên cạnh những dãy núi cao ngất là những quả đồi được tạo hóa sắp xếp liền kề. Màu xanh của núi rừng, cây cỏ đã tạo cho khách cảm giác thư thái, dễ chịu ngay từ phút đầu tiên.

Khu du lịch nước khoáng Thanh Tân còn có một sân chơi rộng rãi để đốt lửa trại hoặc tổ chức văn nghệ vào những buổi dã ngoại ban đêm. Sau nhiều giờ ngâm tắm, bụng đói cồn cào, bạn sẽ ngon miệng hơn với đĩa cá rô nuôi bằng nước khoáng, chiên ròn thơm phức trong những lều tranh xinh xắn bên hồ sen ngát hương.
Phong Sơn, Phong Điền, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Phong Sơn, Phong Điền, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.490123, 107.382174
3669 https://www.yong.vn/Content/images/travels/thac-da-dam.jpg Thác Đá Dăm Đá Dăm là một ngọn thác nhỏ ở Dương Hòa, thị xã Hương Thủy. Bạn có thể tổ chức cùng gia đình, bạn bè đến đây vui chơi, tắm mát vào những ngày nghỉ. Từ trung tâm TP Huế, có hai đường đến thác: một là men theo đường qua công trình hồ Tả Trạch; hai là đi theo hướng cầu Tuần, qua bến đò Tân Ba.

Xuất phát theo hướng cầu Tuần, chúng ta sẽ dễ dàng mua được thức ăn tươi hoặc một số nông sản địa phương ở chợ quê. Gặp mùa thanh trà, đừng quên ghé vào một số vườn cây bên đường, vừa thưởng ngoạn phong cảnh, vừa mua đặc sản này mang theo giải khát.

Đường đến thác khá hoang sơ nên rất thích hợp với những người thích phiêu lưu bằng xe máy, đặc biệt là các bạn trẻ. Muốn chinh phục độ cao, đón dòng nước đầu nguồn, hãy chuẩn bị thật kỹ để không bị trượt chân khi men theo những vách đá dựng đứng; bạn cũng có thể thỏa sức vui đùa ở hồ nước mát lạnh bên dưới thác. Ai lãng mạn thì đi hái hoa rừng, tìm sim chín… Trên đường vào thác có một căn nhà nhỏ của Kiểm lâm Hương Thủy. Các anh nhân viên sẽ là những “thổ địa” cung cấp nhiều thông tin bổ ích về con người, sinh vật khu vực này. Nếu gặp khó khăn trong việc đi lại, tìm kiếm nước uống... đừng ngần ngại mở lời xin giúp đỡ.
Dương Hòa, Tx. Hương Thủy, Thừa Thiên Huế, Việt Nam Dương Hòa, Tx. Hương Thủy, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 16.324629, 107.595205
Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã Huế
Lộc Điền, Phú Lộc, Lộc Hòa, Việt Nam
Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã Huế
3671 https://www.yong.vn/Content/images/travels/thien-vien-truc-lam-bach-ma-hue.jpg Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã Huế Thuộc Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Trúc Lâm Bạch Mã là ngôi thiền viện đầu tiên tại miền Trung, tọa lạc tại núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1450m, nhiệt độ thường từ 19-21 oC, Bạch Mã được xem là một trong những vùng khí hậu lý tưởng. Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã hiện lên giữa lòng Hồ Truồi như một đóa hoa, gối đầu vào núi rừng Bạch Mã trải dài hút mắt.

Từ thành phố Huế xuôi về Nam khoảng 30 km, đến địa phận xứ Truồi, đi vào Đập Truồi, vượt hết dốc thoải bên lưng đồi, một bức tranh thủy mặc sinh động hiện ra. Bên kia bờ nước, dưới chân ngọn linh sơn, những tổ đường, chính điện, tăng đường, trai đường, phương trượng, lầu chuông, tháp xá lợi soi bóng xuống gương nước hồ Truồi, xa xa là những vờn mây quyện quanh những đỉnh núi đã tạo nên một không gian hư ảo, thanh tịnh và yên bình.

Vượt qua lòng hồ Truồi mênh mang sóng nước, độ chừng mươi chục phút, bằng những con suồng nhỏ, sẽ đến thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. Bước lên khỏi 172 bậc tam cấp là tam quan của Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. Được xây dựng hài hoà trong một chỉnh thể của kiển trúc Phật giáo và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, Trúc Lâm Bạch Mã cũng có chính điện thờ Phật tổ đang ngồi tu niệm dưới gốc cây bồ đề, phía sau chính điện là khu vực tổ đường thờ tổ sư Đạt ma của thiền phái Trúc Lâm.

Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã là một quần thể danh lam giữa vùng sơn thủy hữu tình đã trở thành địa chỉ tham quan cho du khách thập phương khi đến với vùng đất cô đô Huế.
Lộc Điền, Phú Lộc, Lộc Hòa, Việt Nam Lộc Điền, Phú Lộc, Lộc Hòa, Việt Nam | 16.246320, 107.792702
0 23
  Xem thông tin Bãi biển Cảnh Dương
Cảnh Dương là một trong những bãi biển đẹp ở Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế chừng 60 km về phía Nam. Bãi biển Cảnh Dương dài 8 km, rộng 200 m, hình vòng cung, nằm giữa mũi chân Mây Tây và chân Mây Ðông, bờ biển có độ dốc thoai thoải, cát trắng mịn, nước biển trong xanh và tương đối kín gió rất thuận lợi cho việc tổ chức các loại hình du lịch và thể thao.
Địa chỉ Bãi biển Cảnh Dương:
  Xem thông tin Bãi biển Thuận An
Bãi biển Thuận An nằm bên cạnh cửa biển Thuận An cách thành phố Huế 15km về phía Đông, nơi dòng sông Hương đổ ra phá Tam Giang rồi thông ra biển. Thuận An là địa điểm thu hút rất đông người dân xứ Huế về hóng mát và tắm biển vào dịp hè. Thời kỳ tấp nập nhất ở đây thường kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9 lúc tiết trời nóng bức nhất. Du khách về Thuận An có thể đến tham quan miếu Thái Dương ở gần đó với sự tích nữ thần Thái Dương được dân làng hết sức sùng bái, hoặc thăm miếu Âm Linh thờ thần cá voi, con vật linh thiêng của dân miền biển.
Địa chỉ Bãi biển Thuận An:
  Xem thông tin Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế là một viện bảo tàng tại số 3, Lê Trực, Tp Huế. Tòa nhà chính của viện bảo tàng bằng gỗ, có 128 cây cột gỗ quý, trên các cột có hình chạm khắc tứ linh: long – li – quy – phụng và hơn 1000 bài thơ bằng chữ Hán. Tòa nhà này chính là điện Long An xây năm 1845 dưới thời vua Hiến tổ nhà Nguyễn, niên hiệu là Thiệu Trị. Hiện bảo tàng trưng bày hơn 300 hiện vật bằng vàng, sành, sứ, pháp lam Huế, ngự y và ngự dụng, trang phục của hoàng thất nhà Nguyễn, cho khách tham quan một cái nhìn tổng thể về cuộc sống cung đình Huế.
Địa chỉ Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế:
  Xem thông tin Chùa Thiên Mụ
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng - vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.

Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê.

Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh”. Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn.

Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là “Thiên Mụ”.
Địa chỉ Chùa Thiên Mụ:
  Xem thông tin Điện Hòn chén
Núi Ngọc Trản xưa có tên là Hương Uyển Sơn, sau mới đổi tên là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc), dân gian vẫn quen gọi là Hòn Chén vì nó ngay ngắn tròn trĩnh như hình chén úp. Cũng vì vậy, người ta quen gọi ngôi điện thờ Thánh mẫu tọa lạc giữa lưng chừng núi là điện Hòn Chén – thuộc địa bàn làng Hải Cát, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà.

Điện Hòn Chén là một cụm di tích gồm khoảng 10 công trình kiến trúc to nhỏ khác nhau đều nằm lưng chừng sườn núi Ngọc Trản, hướng mặt ra sông Hương, ẩn mình dưới những tàng cây cao bóng cả. Mặt bằng của toàn bộ cụm di tích này không lớn lắm, công trình kiến trúc chính là Minh Kính Đài tọa lạc ở giữa; bên phải là nhà Quan Cư, Trinh Cát Viện, Chùa Thánh; bên trái là dinh Ngũ Hành, bàn thờ các quan, động thờ ông Hổ, am Ngoại Cảnh. Sát mép bờ sông còn có am Thủy Phủ. Ngoài ra, trong phạm vi ấy còn có nhiều bệ thờ, nhiều am nhỏ nằm rải rác đó đây.

Điện Hòn Chén không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là một thắng cảnh, một điểm tham quan văn hóa độc đáo thu hút hàng ngàn khách tham quan, nhất là vào dịp lễ hội tháng 3 và tháng 7 Âm lịch hàng năm.
Địa chỉ Điện Hòn chén:
  Xem thông tin Đồi Thiên An - hồ Thủy Tiên
Thiên An là địa danh gồm nhiều ngọn đồi trồng thông phía Tây Nam thành phố Huế, gần lăng vua Khải Ðịnh. Trên đỉnh đồi có Tu viện Thiên An, chung quanh khu vực đồi có hồ Thủy Tiên và khu lăng mộ cổ Ba Vành, còn in dấu vết một nghi án xưa. Khung cảnh bình yên, không gian trong lành, Thiên An và Thủy Tiên là nơi nghỉ dưỡng cuối tuần khá thú vị. Hiện nay khu vực này là trung tâm vui chơi giải trí của Thừa Thiên Huế.
Địa chỉ Đồi Thiên An - hồ Thủy Tiên:
  Xem thông tin Đồi Vọng Cảnh
Đồi Vọng Cảnh là một ngọn đồi cao 43m ở phía Tây Nam thành phố Huế, chân đồi tiếp giáp bờ sông Hương. Nó tọa lạc giữa vùng lăng tẩm của các vua chúa nhà Nguyễn và đối diện với điện Hòn Chén được thiết lập từ thời xa xưa ở phái đối ngạn. Ở quanh quất cách đồi Vọng Cảnh khoảng năm bảy trăm mét là lăng Đồng Khánh, lăng Tự Đức, lăng Thiệu Trị, lăng Hiếu Đông (vợ vua Minh Mạng), lăng Xương Thọ (của bà Từ Dũ, vợ vua Thiệu Trị), lăng bà Thánh Cung (vợ vua Đồng Khánh), lăng bà Từ Cung (vợ vua Khải Định), lăng Hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long),...

Đứng trên đồi Vọng Cảnh, người ta có được một cái nhìn bao quát đối với nhiều di tích cổ kính và những cảnh đẹp tuyệt vời ở một không gian thiên nhiên rộng lớn chung quanh, đặc biệt nhất là vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Hương. Ngọn đồi nằm giữa một khúc uốn mềm mại, dịu dàng và hấp dẫn nhất của dòng sông nổi tiếng đa tình và gợi cảm này. Đây là nơi sông núi xích lại gần nhau để tạo ra một không gian sơn kỳ thủy tú.
Địa chỉ Đồi Vọng Cảnh:
  Xem thông tin Hải Vân Quan
Ngày xưa, Hải Vân Quan là một vị trí chiến lược xung yếu của Thuận Hóa – Phú Xuân – Huế về quân sự cũng như giao thông bằng đường bộ, đó là cửa ngỏ phía nam của vùng đất này. Hải Vân Quan nằm ở đỉnh đèo vắt qua một rặng núi đâm ngang ra biển từ dãy Trường Sơn. Đỉnh đèo Hải Vân ở độ cao 496m so với mực nước biển; cách Huế 77,3km về phía Nam và cách Đà Nẵng 28,7km về phía bắc.

Trong “Dư địa chí” đầu tiên của nước ta do Nguyễn Trãi biên soạn vào năm 1435, tác giả đã nói đến địa danh “Ai Vân”, như là một yếu điểm trên con đường từ Thuận Hóa đi vào Quảng Nam. Và hiện nay, cùng với Lăng Cô – Bạch Mã – Cảnh Dương, Hải Vân Quan là một điểm đang thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan thưởng ngoạn cảnh đẹp hùng vĩ của núi rừng và biển.
Địa chỉ Hải Vân Quan:
  Xem thông tin Hồ Tịnh Tâm
Hồ Tịnh Tâm là một trong những thắng cảnh nổi tiếng của đất Kinh thành, nay thuộc địa phận phường Thuận Thành, Thành phố Huế. Nguyên xưa, hồ là một đoạn sông Kim Long được cải tạo lại, tên ban đầu là ao Ký Tế. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), triều Nguyễn đã huy động tới 8000 binh lính tham gia vào việc cải tạo hồ, biến nó trở thành một Ngự Uyển của Hoàng gia. Sau khi hoàn thành, hồ mang tên mới là Tịnh Tâm.

Hồ Tịnh Tâm có bình diện hình chữ nhật, chu vi gần 1500m (354 trượng 6 thước). Trên hồ có ba hòn đảo Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Đảo Bồng Lai, ở phía nam hồ, chính giữa có điện Bồng Doanh, 3 gian 2 chái, mái trùng diêm, lợp ngói Hoàng lưu li. Điện xây mặt về hướng nam, có lan can gạch bao quanh, phía trước lại có cửa Bồng Doanh, rồi cầu Bồng Doanh nối đảo với bờ hồ phía nam. Phía đông điện Bồng Doanh có nhà Thủy tạ Thanh Tâm, quay mặt về hướng đông. Phía tây điện có lầu Trừng Luyện, quay mặt về hướng tây. Phía bắc là cửa Hồng Cừ và một chiếc cầu cùng tên.

Trên đảo Phương Trượng, chính giữa có gác Nam Huân, quay mặt về hướng nam, 2 tầng, mái lợp ngói hoàng lưu li. Phía nam có cửa Bích Tảo và cầu Bích Tảo. Phía bắc đảo có lầu Tịnh Tâm, xây mặt hướng bắc. Phía đông có nhà Hạo Nhiên (từ năm 1848 đổi thành Thiên Nhiên), quay mặt về hướng đông. Phía tây có hiên Dưỡng Tính quay mặt về hướng tây. Giữa hai đảo có đình Tứ Đạt nằm giữa một hệ thống hành lang mái lợp ngói gồm 44 gian, chạy nối vào cầu Bích Tảo ở phía nam và cầu Hồng Cừ ở phía bắc.

Giữa hồ Tịnh tâm có đê Kim Oanh nối liền từ bờ đông qua bờ tây. Phía đông đê có cầu Lục Liễu, 3 gian, mái lợp ngói. Phía nam, đê gắn với một hành lang dài 56 gian, ở giữa là cầu Bạch Tần. Phía nam cầu có nhà tạ Thanh Tước để thuyền vua ngự. ở đoạn cuối phía tây của hành lang lại có nhà Khúc Tạ, thông với một nhà tạ khác, là Khúc Tạ Hà Phong qua một hành lang nhỏ dựng trên mặt nước. Phía nam nhà tạ này là đảo Doanh Châu.

Trên các góc của đảo Bồng Lai, Phương Trượng đều có xếp đá tạo các giả sơn. Riêng đảo Doanh Châu được tạo dáng như một hòn non bộ lớn nổi trên mặt hồ. Khắp nơi chung quanh đảo Bồng lai, Phương Trượng, đê Kim Oanh và dọc bờ hồ đều trồng các loại liễu trúc và các thứ hoa cỏ lạ. Dưới hồ chỉ trồng duy nhất loại sen trắng.

Hồ Tịnh Tâm được ngăn cách với bên ngoài bằng một vòng tường gạch xây khá cao. Ở bốn mặt trổ bốn cửa: Hạ Huân ở phía nam, Đông Hy ở phía bắc, Xuân Quang ở phía đông và Thu Nguyệt ở phía tây...

Với kiểu kiến trúc cầu kỳ, nhưng hết sức hài hòa với tự nhiên, hồ Tịnh Tâm được xem là một thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan Việt Nam thế kỷ XIX. Cảnh đẹp của hồ đã tạo nguồn thi hứng và trở thành đề tài cho nhiều bài thơ, chùm thơ nổi tiếng của các vua Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… Nổi bật hơn cả vẫn là bài Tịnh Hồ Hạ Hứng, nằm trong chùm thơ ca ngợi 20 cảnh đẹp đất Thần Kinh của vua Thiệu Trị. Đương thời, bài thơ này cùng với phong cảnh hồ Tịnh Tâm được vẽ vào tranh gương để treo ở các cung điện.

Từ cuối thế kỷ XIX, do thiếu điều kiện chăm sóc, các kiến trúc ở khu vực hồ Tịnh Tâm bị hư hỏng dần hoặc bị triệt giải. Năm 1946, vòng tường gạch bao quanh hồ bị phá để xây dựng một vòng tường thấp hơn. Năm 1960, trên nền điện Bồng Doanh cũ có dựng một ngôi đình bát giác nhỏ để kỷ niệm. Trong lần tu bổ này một cây cầu bê tông đã được xây dựng để nối đảo Bồng Lai với đê Kim Oanh...
Địa chỉ Hồ Tịnh Tâm:
  Xem thông tin Hoàng Thành Huế
Hoàng Thành là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành - nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Người ta thường gọi chung Hoàng Thành và Tử Cấm Thành là Đại Nội.

Hoàng Thành được xây dựng năm 1804, nhưng mãi đến năm 1833 đời vua Minh Mạng mới hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống cung điện với khoảng hơn 100 công trình.

Hoàng Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600 mét, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào: Cửa chính (phía Nam) là Ngọ Môn, phía Đông có cửa Hiển Nhơn, phía Tây có cửa Chương Đức, phía Bắc có cửa Hòa Bình. Các cầu và hồ được đào chung quanh phía ngoài thành đều có tên Kim Thủy.

Hoàng Thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong được bố trí trên một trục đối xứng, trong đó trục chính giữ được bố trí các công trình chỉ dành cho vua. Các công trình ở hai bên được phân bố chặt chẽ theo từng khu vực, tuân thủ nguyên tắc (tính từ trong ra): “tả nam hữu nữ”, “tả văn hữu võ”. Ngay cả trong các miếu thờ cũng có sự sắp xếp theo thứ tự “tả chiêu hữu mục” (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian).

Mặc dù có rất nhiều công trình lớn nhỏ được xây dựng trong khu vực Hoàng Thành nhưng tất cả đều được đặt giữa thiên nhiên với các hồ lớn nhỏ, vườn hoa, cầu đá, các hòn đảo và các loại cây lưu niên tỏa bóng mát quanh năm. Mặc dù quy mô của mỗi công trình có khác nhau, nhưng về tổng thể, các cung điện ở đây đều làm theo kiểu “trùng lương trùng thiềm” (hay còn gọi là “trùng thiềm điệp ốc” – kiểu nhà kép hai mái trên một nền), đặt trên nền đá cao, vỉa ốp đá Thanh, nền lát gạch Bát Tràng có tráng men xanh hoặc vàng, mái cũng được lợp bằng một loại ngói đặc biệt hình ống có tráng men thường gọi là ngói Thanh lưu ly (nếu có màu xanh) hoặc Hoàng lưu ly (nếu có màu vàng). Các cột được sơn thếp theo mô típ long-vân (rồng-mây). Nội thất cung điện thường được trang trí theo cùng một phong cách nhất thi nhất họa (một bài thơ kèm một bức tranh) với rất nhiều thơ bằng chữ Hán và các mảng chạm khắc trên gỗ theo đề tài bát bửu, hay theo đề tài tứ thời).

Khu vực phòng vệ: gồm vòng thành bao quanh bên ngoài, cổng thành, các hồ (hào), cầu và đài quan sát.

Khu vực cử hành đại lễ, gồm các công trình:
- Ngọ Môn, cửa chính của Hoàng Thành – nơi tổ chức lễ Duyệt Binh, lễ Truyền Lô (đọc tên các Tiến sĩ tân khoa), lễ Ban Sóc (ban lịch năm mới).
- Điện Thái Hòa - nơi cử hành các cuộc lễ Đại Triều một tháng 2 lần (vào ngày 1 và 15 Âm lịch), lễ Đăng Quang, lễ Vạn Thọ, lễ Quốc Khánh...

Khu vực các miếu thờ: được bố trí ở phía trước, hai bên trục dọc của Hoàng Thành theo thứ tự từ trong ra gồm:
- Triệu Tổ Miếu ở bên trái thờ Nguyễn Kim.
- Thái Tổ Miếu thờ các vị chúa Nguyễn.
- Hưng Tổ Miếu ở bên phải Nguyễn Phúc Luân.
- Thế Tổ Miếu thờ các vị vua nhà Nguyễn.

Khu vực dành cho bà nội và mẹ vua (phía sau, bên phải), gồm hệ thống cung Trường Sanh (dành cho các Thái hoàng Thái hậu) và cung Diên Thọ (dành cho các Hoàng Thái hậu).

Khu vực dành cho các hoàng tử học tập, giải trí như vườn Cơ Hạ, điện Khâm văn... (phía sau, bên trái).

Ngoài ra còn có kho tàng (Phủ Nội Vụ) và các xưởng chế tạo đồ dùng cho hoàng gia (phía trước vườn Cơ Hạ).

Khu vực Tử Cấm Thành nằm trên cùng một trục Bắc - Nam với Hoàng Thành và Kinh Thành, gồm một vòng tường thành bao quanh khu vực các cung điện như:
- Điện Cần Chánh (nơi vua tổ chức lễ Thường triều).
- Điện Càn Thành (chỗ ở của vua).
- Cung Khôn Thái (chỗ ở của Hoàng Quý phi)
- Lầu Kiến Trung (từng là nơi ở của vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương).

Nhà đọc sách và các công trình khác phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của nhà vua và gia đình như Thượng Thiện Đường (nơi phục vụ ăn uống), Duyệt Thị Đường (nhà hát hoàng cung)... Đến nay, trải qua bao biến động và thời gian, hàng trăm công trình kiến trúc ở Đại Nội chỉ còn lại ít ỏi chiếm không đầy một nửa con số ban đầu.
Địa chỉ Hoàng Thành Huế:
  Xem thông tin Lăng Cô, đầm Lập An
Bãi tắm Lăng Cô dài khoảng 8km, nằm dọc Quốc lộ 1A, cạnh đèo Hải Vân và cách Vườn Quốc gia Bạch Mã 24km. Ðây là một bãi tắm có bờ biển thoải, cát trắng, sóng vừa và lớn, thủy triều lên xuống theo chế độ bán nhật triều với mức chênh lệch thấp (chỉ khoảng 0,7-0,8m), rất thích hợp cho loại hình du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng, lặn biển, và đã được xác định là một khu nghỉ mát lý tưởng từ mấy chục năm nay. Nằm liền kề bãi tắm Lăng Cô là núi Hải Vân – Hải Vân Quan một thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam. Dọc theo chân núi Hải Vân, biển Lăng Cô có dải san hô, tôm hùm và nhiều loại hải sản có giá trị cao. Trong khu vực đó còn có hòn Sơn Chà (đảo nhỏ), tại đây còn bảo tồn nhiều loại động, thực vật hoang dã.

Phía sau bãi tắm là đầm Lập An và dãy núi Bạch Mã. Tất cả những yếu tố đó mang lại cho Lăng Cô tiềm năng to lớn về phát triển nhiều loại hình dịch vụ du lịch: nghỉ mát, lặn biển, tìm hiểu hệ động – thực vật hoang dã, nuôi trồng thủy sản...
Địa chỉ Lăng Cô, đầm Lập An:
  Xem thông tin Lăng Khải Định
Lăng khởi công ngày 4 tháng 9 năm 1920 và kéo dài suốt 11 năm mới hoàn tất. Tham gia xây dựng lăng có rất nhiều thợ nghề và nghệ nhân nổi tiếng khắp cả nước như Phan Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả, Ký Duyệt, Cửu Sừng... So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Định có diện tích khiêm tốn hơn nhiều, với kích thước 117 m × 48,5 m nhưng ngược lại cực kỳ công phu và tốn nhiều thời gian. Để xây lăng, Khải Định cho người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói Ardoise..., cho thuyền sang Trung Hoa, Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh màu... để kiến thiết công trình.

Về kiến trúc lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi cái mới, cái lạ, cái độc đáo, cái ngông nghênh, lạc lõng… tạo ra từ phong cách kiến trúc. Về tổng thể, lăng là một khối hình chữ nhật vươn lên cao có 127 bậc cấp. Sự xâm nhập của nhiều trường phái kiến trúc như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique… đã để lại dấu ấn trên những công trình cụ thể:
- Những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ.
- Trụ biểu dạng stoupa của Phật giáo.
- Hàng rào như những cây thánh giá khẳng khiu.
- Nhà bia với những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể...

Điều này là kết quả của hai yếu tố: sự giao thoa văn hóa Đông - Tây trong buổi giao thời của lịch sử và cá tính của Khải Định.
Địa chỉ Lăng Khải Định:
  Xem thông tin Lăng Minh Mạng
Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng, nằm trên núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lãng là nơi hội lưu của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, cách cố đô Huế 12 km. Lăng Minh Mạng được xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 thì hoàn thành, huy động tới mười nghìn thợ và lính.

Lăng Minh Mạng có bố cục kiến trúc cân bằng đối xứng, xung quanh một trục kiến trúc là đường thần đạo, xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính, sân chầu, nhà bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân (thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu), hồ Trừng Minh, Minh Lâu, hồ Tân Nguyệt (trăng non), cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, Trung Đạo kiều và cuối cùng là Bửu thành (mộ vua Minh Mạng). Lăng có diện tích 18 ha (nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha), xung quanh lăng có La thành bao bọc. Cửa chính của lăng tên là Đại Hồng môn, là cửa chỉ để rước linh cữu của vua nhập lăng. Hai bên cửa chính là hai cửa Tả Hồng môn và Hữu Hồng môn. Hồ Trừng Minh gồm hai nửa nối thông với nhau ở phía sau điện Sùng Ân nơi có ba cây cầu đá bắc qua, giống như hai lá “phổi xanh”, bao bọc lấy điện Sùng Ân và các kiến trúc vòng ngoài nằm trên trục thần đạo (khu vực tưởng niệm). Ở giữa hai hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt, trên đường thần đạo, là Minh Lâu. Hồ Tân Nguyệt hình vầng trăng non ôm lấy một phần khu mộ vua (Bửu thành). Bửu thành là một quả đồi thông hình tròn, bao quanh bởi tường thành, bên trong, sâu bên dưới là mộ vua. Ở chính giữa hồ Tân Nguyệt có một cây cầu mang tên Trung Đạo kiều, nối Minh Lâu với Bửu thành và đường dạo quanh lăng. Phía sau Bửu thành là rừng thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch. Trên mặt cắt kiến trúc dọc theo đường thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng cho công trình kiến trúc lăng tẩm này. Bố cục kiến trúc đăng đối của các hạng mục chính trong lăng đem lại cho lăng một vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ. Tuy vậy, ở ngoài rìa, men theo con đường dạo quanh co vòng quanh hai hồ nước và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh như: đình Điếu Ngư, gác Nghênh Phong, hiên Tuần Lộc, sở Quan Lan, Tạ Hư Hoài... làm cho toàn bộ quần thể lăng uy nghiêm nhưng vẫn hài hòa với thiên nhiên và duyên dáng tráng lệ.

Trong khoảng diện tích được giới hạn bởi vòng La thành dài 1.750 m là một quần thể kiến trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ được bố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700 m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ vua. Hình thể lăng tựa dáng một người nằm nghỉ trong tư thế thoải mái, đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự nhiên.
Địa chỉ Lăng Minh Mạng:
  Xem thông tin Lăng Tự Đức
Lăng Tự Đức là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất vua Tự Đức tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi vua Tự Đức băng hà, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng.

Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.

Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi. Lối đi lát gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm đi qua trước Khiêm Cung Môn rồi uốn lượn quanh co ở phía trước lăng mộ. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần là khu điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí của vua. Đầu tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn – một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách… Ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm bắt qua hồ dẫn đến đồi thông.

Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Đường – nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn. Có một hành lang từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì Khiêm Viện và Y Khiêm Viện là chỗ ở của các cung phi theo hầu nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng Khiêm Viện, Dung Khiêm Viện và vườn nuôi nai của vua.

Sau khu vực tẩm điện là khu lăng mộ. Ngay sau Bái Đình với hai hàng tượng quan viên văn võ là Bi Đình với tấm bia bằng đá Thanh Hóa nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm Cung Ký” do chính Tự Đức soạn. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức thần công” trong các lăng khác. Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình, kể công và nhận tội của Tự Đức trước lịch sử. Đằng sau tấm bia là hai trụ biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng cùng với hồ Tiểu Khiêm hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội.
Địa chỉ Lăng Tự Đức:
  Xem thông tin Nhà vườn Huế
Huế không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc thiên nhiên mơ mộng hữu tình mà còn đặc biệt hấp dẫn với chiều sâu của vẻ đẹp văn hóa tinh thần kết đọng nhuần nhị nơi mỗi nét kiến trúc. Cùng với các lăng tẩm trầm mặc. Hoàng thành cổ kính, những ngôi nhà vườn êm ả thanh bình ở đây làm nên “thành phố nhà vườn” Huế.

Được xây theo luật “dịch lý” và “phong thủy”, nhà vườn Huế là tập hợp của một hệ thống kiến trúc sắp xếp theo chiều Bắc - Nam. Tuy rộng hẹp khác nhau, nhưng nhà nào cũng có kiến trúc tổng thể giống nhau, bao gồm: cổng, ngõ, bình phong, hòn non bộ, bể cạn, sân, nhà. Cổng thường xuyên xây bằng gạch, lối vào ngõ thường được trồng những hàng râm bụt hoặc chè tàu cắt xén cẩn thận. Bình phong cũng thường xây bằng gạch. Sau bình phong là bể cạn có hòn non bộ, một mảnh sân rộng rồi mới đến nhà. Xung quanh nhà trồng rất nhiều cây, hoa quanh năm tươi tốt.

Trong khu nhà vườn ấy, không thể không nói tới ngôi nhà rường cổ. Nhà rường thường được làm bằng gỗ, chúng được cầu hỳ hóa bằng nhiều nét văn hoa chạm trổ, trong liên kết của kết cấu nhà, thay cho đóng đinh là kỹ thuật mộng tinh xảo. Nhà rường có nhiều dạng: một gian hai chái, ba gian hai chái, năm gian hai chái, nhà rường lầu… rường là cách nói ngắn gọn của rường cột, nhà có hệ thống cột kèo gỗ được dựng lên theo những quy cách nhất định. Dù lớn đến đâu, nhà rường cũng được kết cấu hoàn toàn bằng chốt, mộng gỗ để có thể lắp ráp và tháo dỡ dễ dàng. Trong nhà bày sập gụ, tủ chè, treo hoành phi, câu đối, đồ đạc được bài trí hài hòa hợp lý, tạo cho nhà rường cái thần thái riêng biệt.

Nhìn cảnh quan một nhà vườn Huế, người ta dễ dàng nhận ra được tâm hồn và phong cách sống của chủ nhân. Nhà vườn Huế thể hiện sự hòa hợp giữa đời sống con người và cây cỏ, giữa nếp sống tinh thần và vật chất, tất cả đều bổ sung cho nhau, để tạo nên sự cân bằng trong cuộc sống.
Địa chỉ Nhà vườn Huế:
  Xem thông tin Núi Bạch Mã
Núi Bạch Mã cách Huế 60km về phía Nam, ở độ cao 1.450m, là nơi nghỉ mát nổi tiếng ở Việt Nam. Trên đỉnh núi hùng vỹ 4 mùa xanh tươi với thác nước, suối rừng, là cả một vùng khí hậu ôn đới như ở SaPa, Tam Ðảo, Ðà Lạt... Núi Bạch Mã còn là nơi quy tụ nhiều loại động vật và thực vật quý hiếm ở miền nhiệt đới.

Núi Bạch Mã nổi tiếng bởi có những con suối và nhiều ngọn thác ngoạn mục. Thác Ðỗ Quyên cao 400m, rộng 20m, nhữngngày hè, hai bên bờ thác, hoa Ðỗ Quyên nở rộ như hai thảm lụa hoa khổng lồ. Ở trung tâm khu nghỉ mát có ngọn thác Bạc cao 10m, rộng 40m như một bức rèm trắng muốt đung đưa trước gió.

Ðứng trên đỉnh núi Bạch Mã bạn có thể thu vào tầm mắt toàn cảnh lộng lẫy của đèo Hải Vân, núi Túy Vân, đầm Cầu Hai và ánh điện lung linh của thành phố Huế vào ban đêm.
Địa chỉ Núi Bạch Mã:
  Xem thông tin Núi Ngự Bình
Núi Ngự Bình (còn gọi là Bằng Sơn) cao 105 m, dáng cân đối uy nghi. Hai bên Bằng Sơn có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Vương triều Nguyễn khi xây dựng kinh thành Huế đã chọn núi này làm tiền án của hệ thống phòng thành đồ sộ, kiên cố và đổi tên cho ngọn núi này là Ngự Bình.

Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình là quà tặng vô giá thứ hai của tạo hoá, quyện vào nhau tạo nên vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình của Huế. Từ lâu, ngọn núi xinh đẹp này cùng với sông Hương trong xanh đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế. Người ta quen gọi Huế là xứ sở của sông Hương – núi Ngự, miền Hương Ngự.
Địa chỉ Núi Ngự Bình:
  Xem thông tin Phá Tam Giang
Tam Giang là hợp lưu của ba con sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương trước khi đổ vào biển Đông. Vì thế phá Tam Giang mang tính “biểu tượng” về môi trường sinh thái của Thừa Thiên – Huế xưa và nay. Không một du khách nào đến đây, lại bỏ qua địa danh nổi tiếng này.

Đây là vùng đất ngập mặn lớn nhất Đông Nam Á, mặt nước rộng 248,7 km2, khơi đầu từ cửa sông Ô Lâu ở phía bắc đến cửa sông Hương ở phía nam. Đầm phá bao đời nay có rất nhiều động vật thủy sinh, nhiều nhất ở các cửa biển Thuận An, cửa sông Ô Lâu, sông Bồ, đầm Thủy Tú. Cầu Hai, Hiện nay đã xác định được 163 loài cá, nhiều loài quý hiếm như cá vược, cá chình. Tùy theo mùa, còn một số loài cá di cư vào đầm phá để sinh sản như cá mòi, cá cơm biển… Ngược lại, cá đối, cá mú, cá dìa sống trong đầm phá lại di cư ra biển để đẻ trứng. Quanh năm, ngư dân đánh bắt được trên đầm phá khoảng 23 loài cá có giá trị kinh tế cao là cá dầy, cá dìa, cá bống thệ, cá hanh, cá hồng, cá căn...

Bề mặt đầm phá có thảm thực vật tự nhiên nên các loài chim nước tụ tập về đây, tạo thành các sân chim lớn tại cửa sông Ô Lâu, cửa sông Đại Giang và đầm Sam. Qua theo dõi, đã phát hiện được 34 loài chim di cư, 36 loài chim định cư, đặc biệt có 21 loài chim thuộc danh mục bảo vệ nghiêm ngặt của cộng đồng Châu Âu và một loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam. Đồng thời, ông Trời dường như muốn bù đắp cho ngư dân đầm phá những thiệt hại trong mùa bão lũ, nên hằng năm cứ đến cuối tháng 11, đầm phá lại vào mùa cá giống ngoài biển di cư vào. Lý do là đầm phá vốn có một loài rong tảo quý hiếm không nơi nào có được, người địa phương gọi tên nó là rong hẹ hoặc rong cỏ kiệu. Đây là món ăn ưa thích và cũng là nơi sinh trưởng lý tưởng của ba loài cá đặc sản: cá mú, cá hồng và cá nâu. Tại các khu vực đầm phá nước cạn như Cồn Tè, Cồn Sơn, Cồn Đờn có hàng hà đàn cá con ( cá mú, cá hồng, cá dìa) di cư từ biển Đông vào trú ngụ, ngư dân chỉ việc thả lưới ( gọi là đi dũi) bắt về bán cho các trại cá giống từ Quảng Ninh vào, Nha Trang- Khánh Hòa ra mua tại chỗ. Hết mỗi đợt không khí lạnh, từng đàn cá giống ấy bơi qua các doi cát, tìm vào các con lạch, người dân mặc sức vây lưới đánh bắt. Mỗi con cá giống chỉ bằng mút đũa giá 600 đồng/con. Về cuối năm, giá lên đến 2.500- 3.000 đồng/con.

Đầm phá đối diện với biển Đông trải dài hơn 68 km, chỉ ngăn cách với biển bởi một dãi cát hẹp, thông thương qua hai cửa biển Thuận An và Tư Hiền. Do đó nó có khả năng tự làm sạch môi trường nước và luôn được sóng gió biển Đông ùa vào bên trong, trở thành một “buồng phổi” lớn để điều hòa môi trường sinh thái cho toàn tỉnh Thừa Thiên Huế một cách tự nhiên và thường xuyên.
Địa chỉ Phá Tam Giang:
  Xem thông tin Sông An Cựu
An Cựu là tên một con sông nhỏ, chi lưu của sông Hương, ở phía Nam kinh thành Huế. Sông có nhiều tên gọi như Lợi Nông, Phủ Cam, Đại Giang, Hà Tự, Cống Quan, tên phổ biến ở Huế là sông An Cựu. Toàn bộ dòng sông dài khoảng 30km, bắt đầu lấy nước sông Hương từ đoạn cuối cồn Dã Viên, chảy qua địa phận Thành phố Huế, huyện Hương Thủy rồi đổ vào phá Hà Trung. Từ khi các chúa Nguyễn chọn Kim Long, rồi Phú Xuân là thủ phủ của Đàng Trong, 2 bên bờ sông An Cựu đã là nơi tập trung dinh thự, nhà vườn của các quan lại, quý tộc. Tuy nhiên lúc này sông còn nhỏ, nhiều đoạn cạn hẹp. Năm Gia Long 13 (1814), sau khi khảo sát tình hình và hỏi ý kiến các vị bô lão ở xã Thanh Thủy, nhà vua đã cho khơi đào thêm sông An Cựu và cho đắp đập Thần Phủ ở phía dưới để lấy nước tưới tiêu, rửa mặn cho hành vạn mẫu ruộng ở khu vực này. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), sông An Cựu được đổi tên thành sông Lợi Nông. Bia đá khắc tên này vẫn còn. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) khi đúc Cửu Đỉnh, hình ảnh và tên sông đã được khắc vào Chương Đỉnh.
Địa chỉ Sông An Cựu:
  Xem thông tin Sông Hương - Huế
Sông Hương có hai ngọn nguồn. Nguồn Tả Trạch xuất phát từ dãy núi Trường Sơn chảy về hướng Tây Bắc qua 55 ngọn thác hùng vĩ, nguồn Hữu Trạch ngắn hơn sau khi vượt 14 ngọn thác hiểm trở và đến ngã ba Bằng Lãng (ngã ba Tuần) hợp dòng với Tả Trạch thành sông Hương thơ mộng. Sông Hương dài 30 km (nếu chỉ kể từ Bằng Lãng đến cửa Thuận An), độ dốc của dòng nước so với mặt biển không chênh lệch nhiều nên nước sông chảy chậm. Sắc nước sông Hương trở nên xanh hơn khi vượt qua chân núi Ngọc Trản – điện Hòn Chén, tạo nên một lòng vực sâu thẳm.

Sông Hương đẹp từ nguồn, uốn lượn quanh co giữa núi rừng trùng điệp, đồi cây, mang theo những mùi vị hương thơm của thảo mộc rừng nhiệt đới. Dòng sông chầm chậm lướt qua các làng mạc xanh tươi, rợp bóng cây của Kim Long, Nguyệt Biều, Vĩ Dạ, Ðông Ba, Gia Hội, Chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh, quyện theo mùi thơm của các loài hoa xứ Huế. Dòng sông xanh trong vắt lung linh như ngọc bích dưới ánh mặt trời, những con thuyền Huế xuôi ngược, dọc ngang với điệu hò man mác, trầm tư, sâu lắng giữa đêm khuya. Ði chơi bằng thuyền để được ngắm cảnh Hương giang thơ mộng, nghe những điệu hò, dân ca xứ Huế lúc trời đêm thanh vắng là thú vui muôn thuở của bao lớp du khách...
Địa chỉ Sông Hương - Huế:
  Xem thông tin Suối khoáng Thanh Tân
Nước khoáng Thanh Tân nằm sâu hàng nghìn mét dưới lòng đất, chứa Calcium Sunfat và Silicium... rất tốt cho cơ thể. Vì thế, đây là điểm đến thích hợp với nhiều du khách trong tiết trời se se lạnh, giao mùa.

Được phát hiện năm 1928 bởi các nhà khoa học Pháp, suối khoáng Thanh Tân nhanh chóng được nghiên cứu, ứng dụng làm nước giải khát phục hồi sức khỏe con người. Năm 1983, nguồn nước này được Bộ Y tế cho phép khai thác làm nước uống đóng chai. Tuy nhiên, đến cuối năm 2000, khu du lịch suối nước khoáng Thanh Tân mới trở nên thông dụng và được nhiều người biết tới. Khu du lịch suối khoáng Thanh Tân xây dựng trên diện tích 50 ha. Bên cạnh những dãy núi cao ngất là những quả đồi được tạo hóa sắp xếp liền kề. Màu xanh của núi rừng, cây cỏ đã tạo cho khách cảm giác thư thái, dễ chịu ngay từ phút đầu tiên.

Khu du lịch nước khoáng Thanh Tân còn có một sân chơi rộng rãi để đốt lửa trại hoặc tổ chức văn nghệ vào những buổi dã ngoại ban đêm. Sau nhiều giờ ngâm tắm, bụng đói cồn cào, bạn sẽ ngon miệng hơn với đĩa cá rô nuôi bằng nước khoáng, chiên ròn thơm phức trong những lều tranh xinh xắn bên hồ sen ngát hương.
Địa chỉ Suối khoáng Thanh Tân:
  Xem thông tin Thác Đá Dăm
Đá Dăm là một ngọn thác nhỏ ở Dương Hòa, thị xã Hương Thủy. Bạn có thể tổ chức cùng gia đình, bạn bè đến đây vui chơi, tắm mát vào những ngày nghỉ. Từ trung tâm TP Huế, có hai đường đến thác: một là men theo đường qua công trình hồ Tả Trạch; hai là đi theo hướng cầu Tuần, qua bến đò Tân Ba.

Xuất phát theo hướng cầu Tuần, chúng ta sẽ dễ dàng mua được thức ăn tươi hoặc một số nông sản địa phương ở chợ quê. Gặp mùa thanh trà, đừng quên ghé vào một số vườn cây bên đường, vừa thưởng ngoạn phong cảnh, vừa mua đặc sản này mang theo giải khát.

Đường đến thác khá hoang sơ nên rất thích hợp với những người thích phiêu lưu bằng xe máy, đặc biệt là các bạn trẻ. Muốn chinh phục độ cao, đón dòng nước đầu nguồn, hãy chuẩn bị thật kỹ để không bị trượt chân khi men theo những vách đá dựng đứng; bạn cũng có thể thỏa sức vui đùa ở hồ nước mát lạnh bên dưới thác. Ai lãng mạn thì đi hái hoa rừng, tìm sim chín… Trên đường vào thác có một căn nhà nhỏ của Kiểm lâm Hương Thủy. Các anh nhân viên sẽ là những “thổ địa” cung cấp nhiều thông tin bổ ích về con người, sinh vật khu vực này. Nếu gặp khó khăn trong việc đi lại, tìm kiếm nước uống... đừng ngần ngại mở lời xin giúp đỡ.
Địa chỉ Thác Đá Dăm:
  Xem thông tin Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã Huế
Thuộc Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Trúc Lâm Bạch Mã là ngôi thiền viện đầu tiên tại miền Trung, tọa lạc tại núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1450m, nhiệt độ thường từ 19-21 oC, Bạch Mã được xem là một trong những vùng khí hậu lý tưởng. Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã hiện lên giữa lòng Hồ Truồi như một đóa hoa, gối đầu vào núi rừng Bạch Mã trải dài hút mắt.

Từ thành phố Huế xuôi về Nam khoảng 30 km, đến địa phận xứ Truồi, đi vào Đập Truồi, vượt hết dốc thoải bên lưng đồi, một bức tranh thủy mặc sinh động hiện ra. Bên kia bờ nước, dưới chân ngọn linh sơn, những tổ đường, chính điện, tăng đường, trai đường, phương trượng, lầu chuông, tháp xá lợi soi bóng xuống gương nước hồ Truồi, xa xa là những vờn mây quyện quanh những đỉnh núi đã tạo nên một không gian hư ảo, thanh tịnh và yên bình.

Vượt qua lòng hồ Truồi mênh mang sóng nước, độ chừng mươi chục phút, bằng những con suồng nhỏ, sẽ đến thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. Bước lên khỏi 172 bậc tam cấp là tam quan của Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. Được xây dựng hài hoà trong một chỉnh thể của kiển trúc Phật giáo và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, Trúc Lâm Bạch Mã cũng có chính điện thờ Phật tổ đang ngồi tu niệm dưới gốc cây bồ đề, phía sau chính điện là khu vực tổ đường thờ tổ sư Đạt ma của thiền phái Trúc Lâm.

Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã là một quần thể danh lam giữa vùng sơn thủy hữu tình đã trở thành địa chỉ tham quan cho du khách thập phương khi đến với vùng đất cô đô Huế.
Địa chỉ Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã Huế:
16.329920, 107.961517 | Bãi biển Cảnh Dương | Bãi biển Cảnh Dương, Lộc Vĩnh, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3664 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/bai-bien-canh-duong.jpg | 0
16.570948, 107.63115 | Bãi biển Thuận An | Bãi tắm Thuận An, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3663 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/bai-bien-thuan-an.jpg | 0
16.471208, 107.581869 | Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế | 03 Lê Trực, Thuận Thành, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3656 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/bao-tang-my-thuat-cung-dinh-hue.jpg | 0
16.453496, 107.545209 | Chùa Thiên Mụ | Chùa Thiên Mụ, Kim Long, Hương Long, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3655 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/chua-thien-mu.jpg | 0
16.421966, 107.562933 | Điện Hòn chén | Huyền Trân Công Chúa, Hương Thọ, Tx. Hương Trà, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3661 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/dien-hon-chen.jpg | 0
16.407949, 107.578554 | Đồi Thiên An - hồ Thủy Tiên | hồ Tiên, Thủy, Thủy Bằng, Tx. Hương Thủy, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3659 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/doi-thien-an-ho-thuy-tien.jpg | 0
16.427071, 107.564735 | Đồi Vọng Cảnh | Huyền Trân Công Chúa, Phường Thuỷ Biều, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3660 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/doi-vong-canh.jpg | 0
16.210159, 108.10895 | Hải Vân Quan | Đèo Hải Vân, tt. Lăng Cô, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3666 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/hai-van-quan.jpg | 0
16.477374, 107.576035 | Hồ Tịnh Tâm | Hồ Tịnh Tâm, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3662 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/ho-tinh-tam.jpg | 0
16.467772, 107.578913 | Hoàng Thành Huế | Lê Duẩn, Thuận Thành, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3649 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/hoang-thanh-hue.jpg | 0
16.234680, 108.085771 | Lăng Cô, đầm Lập An | An Cư Đông, tt. Lăng Cô, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3665 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/lang-co-dam-lap-an.jpg | 0
16.399118, 107.590313 | Lăng Khải Định | Lăng Khải Định (Ứng Lăng), Khải Định, Thủy Bằng, Tp. Huế, Huế, Việt Nam | 23 | 3653 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/lang-khai-dinh.jpg | 0
16.387487, 107.570743 | Lăng Minh Mạng | Lăng Minh Mạng (Hiếu Lăng), QL49, Hương Thọ, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3652 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/lang-minh-mang.jpg | 0
16.433155, 107.566049 | Lăng Tự Đức | Lăng Tự Đức Khiêm Lăng, Thủy Xuân, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3650 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/lang-tu-duc.jpg | 0
16.454786, 107.553867 | Nhà vườn Huế | 58 Nguyễn Phúc Nguyên, Hương Long, Tp. Huế, Huế, Việt Nam | 23 | 3654 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/nha-vuon-hue.jpg | 0
16.182035, 107.905655 | Núi Bạch Mã | Hòa Bắc, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3667 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/nui-bach-ma.jpg | 0
16.441968, 107.595638 | Núi Ngự Bình | Núi Ngự Bình, An Cựu, Tp. Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3658 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/nui-ngu-binh.jpg | 0
16.620200, 107.497265 | Phá Tam Giang | Phá Tam Giang, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3672 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/pha-tam-giang.jpg | 0
16.456309, 107.599207 | Sông An Cựu | sông An Cựu, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3668 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/song-an-cuu.jpg | 0
16.452126, 107.552912 | Sông Hương - Huế | Sông Hương, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3657 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/song-huong-hue.jpg | 1
16.490123, 107.382174 | Suối khoáng Thanh Tân | Phong Sơn, Phong Điền, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3670 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/suoi-khoang-thanh-tan.jpg | 0
16.324629, 107.595205 | Thác Đá Dăm | Dương Hòa, Tx. Hương Thủy, Thừa Thiên Huế, Việt Nam | 23 | 3669 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/thac-da-dam.jpg | 0
16.246320, 107.792702 | Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã Huế | Lộc Điền, Phú Lộc, Lộc Hòa, Việt Nam | 23 | 3671 | https://www.yong.vn/Content/images/travels_grid/thien-vien-truc-lam-bach-ma-hue.jpg | 0

9. Bản đồ du lịch Thừa Thiên Huế

Điểm Du Lịch
Quán ăn
Quán Cafe
L
Địa điểm của bạn
Kinh nghiệm du lịch phượt Thừa Thiên Huế